Bản án 61/2019/HSST ngày 20/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 61/2019/HSST NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2019/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn H, sinh ngày 11/10/1992, tại huyện YM, tỉnh NB; nơi cư trú: Xóm A, xã YT, huyện YM, tỉnh NB; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn L và bà Đinh Thị H; chưa có vợ con: tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 7/10/2019 đến ngày 9/10/2019 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Văn T; sinh năm 1980, nơi cư trú: Xóm A, xã YT, huyện YM, tỉnh NB (có mặt).

- Người làm chứng:

+ Ông Trương Văn M (vắng mặt).

- Người chứng kiến:

+ Ông Phạm Khắc V (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lê Văn H là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 7/10/2019 tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp phối hợp với Công an xã ĐS tiến hành tuần tra trên địa bàn xã ĐS, khi đi đến đoạn đường thuộc Thôn A phát hiện Lê Văn H đang ngồi trên xe mô tô biển kiểm soát 35B1-802.72 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đến yêu cầu kiểm tra hành chính, Lê Văn H đã tự giác lấy ra từ túi quần bên phải đang mặc trên người 01 túi nilon màu trắng, bên trong có 02 gói nhỏ được bọc ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong 02 gói giấy bạc màu vàng có chứa chất bột màu trắng. H khai nhận bản thân là người sử dụng ma túy, 02 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chất bột màu trắng là ma túy loại heroine H mua về để sử dụng cho bản thân. Tại chỗ tổ công tác đã tiến hành thu giữ và niêm phong 01 túi nilon màu trắng bên trong có 02 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy màu vàng theo đúng quy định pháp luật. Ngoài ra còn thu giữ của Lê Văn H 01 điện thoại di động Nokia bên trong có lắp 01 sim Viettel số thuê bao 0983690135, 01 xe môtô BKS 35B1-802.72; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng. Sau đó đưa Lê Văn H về trụ sở công an xã ĐS lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã lấy toàn bộ 02 gói chất bột màu trắng thu giữ của Lê Văn H, ký hiệu M1 và M2 gửi đi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 308/KLGĐ-PC09-MT ngày 8/10/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0749 (không phẩy không nghìn bảy trăm bốn mươi chín) gam, M2 có khối lượng 0,0882 (không phẩy không nghìn tám trăm tám mươi hai) gam. Tổng khối lượng chất bột màu trắng trong 02 mẫu ký hiệu M1, M2 là 0,1631 (không phẩy một nghìn sáu trăm ba mươi mốt) gam.

- Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định kí hiệu M1, M2 đều là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô BKS 35B1 – 80272 cho anh Lê Văn T.

Tại bản cáo trạng số: 67/CT-VKS ngày 05 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Văn H và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ 07/10/2019.

- Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ các vật chứng, bao gồm: 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số 308/KLGĐ-PC09-MT, bên trong có 0,0224 gam chất bột mầu trắng, ký hiệu M1, 0,0308 gam chất bột màu trắng, ký hiệu M2 đều là ma túy loại Heroine được hoàn lại sau khi gửi mẫu đi giám định và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn, bên trong có 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ của Lê Văn H, 02 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 vỏ túi nilon màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 sim Viettel có số thuê bao 0983690135; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong điện thoại của Lê Văn H. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Nokia màu đen có số seri 359544016672069;

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình với diễn biến sự việc đúng như cáo trạng đã nêu. Bị cáo cho rằng bị truy tố là đúng người, đúng tội, đồng ý với luận tội của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.

Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị được hưởng mức án nhẹ nhất.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn T trong quá trình điều tra xác nhận đã được Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe mô tô BKS 35B1- 80272 và không có yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo nhận tội và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, người làm chứng đều có lời khai báo xác định được chứng kiến bị cáo tự giao nộp 01 túi nilon, bên trong có 02 giói nhỏ chứa chất bột mầu trắng và khai nhận là ma túy loại Heroine cho Công an khi bị yêu cầu kiểm tra, diễn biến sự việc đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của những làm chứng, người chứng kiến, phù hợp với nội dung bản kết luận giám định số 308/KLGĐ-PC09-MT ngày 08/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 07/10/2019, bị cáo Lê Văn H đã có hành vi cất giữ trong người 0,1631 (không phẩy một nghìn sáu trăm ba mươi mốt) gam ma túy, loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi cất giữ chất ma túy trong người để sử dụng cho bản thân là trái phép, do cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của nhà nước đối với chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và tệ nạn xã hội.

Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” Khối lượng ma túy Heroine bị cáo tàng trữ trái phép được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, do vậy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo và tự giác giao nộp gói ma túy và khai nhận là Heroine nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân: Trước khi phạm tội, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[6] Xét tính chất hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, khối lượng, loại chất ma túy bị cáo tàng trữ trái phép và nhân thân của bị cáo thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp đề nghị xử phạt bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội, đủ nghiêm khắc để giáo dục, cải tạo, đồng thời đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội để phục vụ cho nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Anh Lê Văn T chủ sở hữu hợp pháp là chiếc xe mô tô BKS 35B1- 80272, chiếc xe mô tô này trước đây là của bị cáo Lê Văn H đã bán cho anh Lê Văn T nhưng chưa sang tên đổi chủ, bị cáo H mượn xe anh Tập đi mua ma túy nhưng anh Tập không biết nên không vi phạm pháp luật, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô BKS 35B1- 80272 cho anh Lê Văn T là đúng quy định của pháp luật.

Đối với các vật chứng gồm: Số ma túy được hoàn lại sau khi giám định, số vỏ bao gói trong niêm phong vật chứng ban đầu, 02 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 vỏ túi nilon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, 01 sim Viettel có số thuê bao 0983690135, 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong điện thoại của Lê Văn H, 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã được chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp quản lý. Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Nokia màu đen có số seri 359544016672069 là công cụ bị cáo liên lạc mua ma túy, số ma túy là vật cấm lưu hành và các vật chứng còn lại không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo Lê Văn H khai mua của một nam thanh niên tại ngã tư thuộc thôn A, xã ĐS, thành phố TĐ, tỉnh NB, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được người nam thanh niên mà bị cáo đã khai báo nên tách tài liệu để tiếp tục xác minh là đúng quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo Lê Văn H bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Lê Văn H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 07/10/2019

3. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số 308/KLGĐ-PC09-MT và các vật chứng bên trong gồm: 0,0224 gam chất bột mầu trắng, ký hiệu M1, 0,0308 gam chất bột màu trắng, ký hiệu M2 đều là ma túy loại Heroine được hoàn lại sau khi gửi mẫu đi giám định và toàn bộ vỏ bao gói trong niêm phong ban đầu;

+ 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn và các vật chứng bên gồm: 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ của Lê Văn H;

+ 02 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 vỏ túi nilon màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng;

+ 01 sim Viettel có số thuê bao 0983690135;

+ 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong điện thoại của Lê Văn H.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia màu đen có số seri 359544016672069.

(Chi tiết vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 06/11/2019 giữa cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam Điệp và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp)

4. Về án phí: Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hánh án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HSST ngày 20/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về