Bản án 61/2018/HS-ST ngày 20/07/2018 về tội buôn lậu

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 62/2017/HSST NGÀY 11/09/2017 VỀ TỘI BUÔN LẬU

Ngày 20 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 59/2018/TLST- HS ngày 29 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Kim A, sinh ngày 04 tháng 10 năm 1989 tại thị trấn L, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Nơi đăng ký thường trú: Thôn V, xã T, huyện G, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Văn N và bà: Bùi Thị X; chồng: Đồng Chiến H; con: Có 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị tạm giam tại Công an huyện Chi Lăng từ ngày 09/5/2018 đến ngày 18/6/2018 được chuyển đến trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Trần Thị K, sinh năm 1957; nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện G, tỉnh Bắc Giang . Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2017 Nguyễn Thị Kim A thường xuyên đi sang Trung Quốc làm Thuê. Sáng ngày 25/12/2017 Nguyễn Thị Kim A từ nhà đi xe mô tô biển kiểm soát 34M2 – 6951 (xe của bà Trần Thị K mẹ chồng A) để sang chợ Z, Trung Quốc. Khi đi đến khu vực cửa khẩu U, tỉnh Lạng Sơn, Nguyễn Thị Kim A gửi xe mô tô ở bãi gửi xe, sau đó đi bộ theo đường mòn sang chợ Z, Trung Quốc bán hàng cho một người phụ nữ Trung Quốc tên X (A không biết họ, địa chỉ). Đến cuối giờ chiều ngày 25/12/2017 Nguyễn Thị Kim A nói với bà X là bán hết ngày hôm nay sẽ nghỉ để về Việt Nam ăn tết nguyên đán năm 2018. Bà X đồng ý và nói với Nguyễn Thị Kim A là cho A 02 (hai) thùng pháo để về Việt Nam bán lấy tiền. Nghe bà X nói vậy Nguyễn Thị Kim A nảy sinh ý định mang pháo về quê Bắc Giang để bán nên Nguyễn Thị Kim A đã đồng ý, sau đó bà X cho một người phụ nữ Trung Quốc (A không quen biết) đi lấy pháo. Một lúc sau Nguyễn Thị Kim A thấy một người phụ nữ mang 02 (hai) thùng bìa cát tông đến chỗ cửa hàng, bà X nói 02 (hai) thùng bìa cát tông đó là pháo. Nguyễn Thị Kim A thấy 02 (hai) thùng bìa cát tông to và nặng nên nói với bà X là không lấy về được, bà X bảo người phụ nữ chia pháo thành 04 (bốn) thùng bìa cát tông rồi bọc bằng bao tải dứa màu xanh bên ngoài. Trong lúc chia pháo Nguyễn Thị Kim A nhìn thấy số pháo mà bà X cho là loại pháo giàn (49 quả/giàn). Sau đó Nguyễn Thị Kim A cho 04 (bốn) thùng pháo lên xe ba gác để vận chuyển ra đường biên giới. Bà X cho người phụ nữ đi cùng để hộ vận chuyển pháo. Sau khi ra đến sát đường biên giới, người phụ nữ Trung Quốc đứng đợi ở bên đất Trung Quốc cùng 02 (hai) thùng pháo, còn Nguyễn Thị Kim A vác 02 (hai) thùng pháo về Việt Nam, đến khu vực cửa khẩu U Nguyễn Thị Kim A giấu 02 (hai) thùng pháo vào bụi cây rồi tiếp tục quay lại lấy 02 (hai) thùng pháo còn lại. Sau khi vận chuyển 04 (bốn) thùng pháo về đến cửa khẩu U, tỉnh Lạng Sơn, Nguyễn Thị Kim A ra bãi gửi xe lấy xe mô tô biển kiểm soát 34M2 – 6951 và buộc 04 (bốn) thùng pháo lên xe rồi điều khiển xe chở pháo đi theo quốc lộ 1A để về Bắc Giang. Khoảng 22 giờ ngày 25/12/2017 khi đi đến km 66 quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn C, thị trấn Q, huyện J, tỉnh Lạng Sơn thì bị Tổ tuần tra kiểm soát giao thông Trạm Cảnh sát giao thông Tùng Diễn – Công an tỉnh Lạng Sơn bắt giữ và chuyển giao cho Công an huyện Chi Lăng.

Vật chứng, đồ vật thu giữ gồm: 24 (hai mươi tư) khối hộp, bên ngoài có nhiều hoa văn, bên trong mỗi hộp có 49 vật hình trụ vỏ giấy được liên kết với nhau thành khối. Tổng trọng lượng là 48 kg (bốn mươi tám ki lô gam); 01 xe mô tô biển kiểm soát 30M2 – 6951.

Tại bản kết luận giám định số 6595/C54-P2 ngày 10/01/2018 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu vật (thu giữ của Nguyễn Thị Kim A) gửi giám định là pháo hoa, có chứa thuốc pháo, loại pháo hoa này khi đốt phát ra tiếng nổ.

Ngày 20/3/2018 Công an huyện Chi Lăng đã tiến hành xử lý vật chứng, tiêu huỷ 23 (hai ba) giàn pháo nổ còn lại sau giám định.

Đối với bà X và người phụ nữ Trung Quốc đã cho và vận chuyển pháo do không có thông tin cụ thể nên không thể tiến hành điều tra, xác minh.

Đối với bà Trần Thị K là người đã cho Nguyễn Thị Kim A mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 30M2 – 6951 nhưng bà K không biết Nguyễn Thị Kim A sử dụng xe làm phương tiện vận chuyển pháo nên ngày 09/6/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chi Lăng đã trả lại Đồng Anh Y (người được bà K ủy quyền) 01 xe mô tô biển kiểm soát 30M2 – 6951.

Ngày 09/5/2018 Nguyễn Thị Kim A đã bị bắt theo lệnh truy nã. Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Chi Lăng.

Cáo trạng số 61/CT-VKS ngày 28 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Kim A về tội Buôn lậu quy định tại điểm c khoản 1 Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Kim A đã khai nhận hành vi sang Trung Quốc đem pháo về Việt Nam bán và toàn bộ nội dung vụ án.

Kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên trình bày bản luận tội và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị Kim A theo tội danh và điều luật như trên. Sau khi đánh giá tính chất vụ án, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:Về hình sự: Tuyên bố bị cáo  Nguyễn Thị Kim A phạm tội: “Buôn lậu”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 153; các điểm h, p khoản 1 Điều 46, Điều 33, Điều 45 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Về phạt bổ sung đề nghị không áp dụng.

Về vật chứng: Đề nghị công nhận việc xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra.

Bị cáo Nguyễn Thị Kim A không có ý kiến tranh luận, bị cáo thừa nhận việc xét xử là đúng người, đúng tội, không oan. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chi Lăng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Kim A khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên, lời khai của các bị cáo phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường do Công an huyện Chi Lăng lập ngày 25/12/2017, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ. Các chứng cứ đó phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm, hành vi, có đủ cơ sở để kết luận:

[3] Từ tháng 11/2017 Nguyễn Thị Kim A sang chợ Z, Trung Quốc bán hàng thuê cho bà X (không biết họ, địa chỉ). Đến ngày 25/12/2017 Nguyễn Thị Kim A được bà X cho 24 hộp pháo nổ có trọng lượng là 48 kg. Khoảng 22 giờ cùng ngày khi Nguyễn Thị Kim A đang vận chuyển pháo trên xe mô tô biển kiểm soát 30M2 – 6951 đi đến km 66 quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn C, thị trấn Q, huyện J, tỉnh Lạng Sơn thì bị tổ tuần tra kiểm soát giao thông Trạm Cảnh sát giao thông Tùng Diễn – Công an tỉnh Lạng Sơn kiểm tra thu giữ. Mục đích Nguyễn Thị Kim A mang số pháo trên về Bắc Giang để bán.

[4] Bị cáo Nguyễn Thị Kim A là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Do vậy có đủ khả năng để nhận thức việc buôn bán pháo nổ là vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích đem pháo về để bán kiếm lời, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi vượt biên giới sang Trung Quốc buôn bán pháo nổ với số lượng lớn (48 kg). Bị cáo đã vi phạm các quy định như: Chỉ thị 406/CT-TTg ngày 08/8/1994 của Thủ tướng chính phủ về việc cấm vận chuyển, buôn bán và đốt pháo. Nghị quyết số 05/CP ngày 11/10/1997 của Chính phủ về việc cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán và đốt các loại pháo, Nghị định số 36/2009/NĐ-CP của Chính phủ về Quản lý, sử dụng pháo. Vậy đã có đủ các căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Thị Kim A phạm tội “Buôn lậu”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Kim A là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về kinh tế. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật: Cấm vận chuyển, buôn bán và đốt các loại pháo, bị cáo biết nhưng vẫn vi phạm, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng truy tố bị cáo là có căn cứ đúng quy định của pháp luật cần chấp nhận.

[6] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim A.

[7] Về tính chất, mức độ của hành vi: Bị cáo lợi dụng việc thông thuộc địa hình biên giới, vượt biên sang Trung Quốc đem pháo nổ về bán kiếm lời, khi bị phát hiện đã lợi dụng việc cho tại ngoại bỏ trốn bị truy nã; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt; về tình tiết tăng nặng: Không có; về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà Nguyễn Thị Kim A thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên cho bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo, tu dưỡng, sớm trở thành công dân tốt, sống có ích cho xã hội, biết tôn trọng pháp luật.

[8] Trên cơ sở xem xét đánh giá tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy Nguyễn Thị Kim A có nhân thân tốt nhưng hành vi phạm tội là nghiêm trọng nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm, răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời tăng cường giáo dục và phòng ngừa chung, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[9] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về vật chứng: Việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chi Lăng đã tiến hành tiêu hủy toàn bộ số pháo nổ thu giữ của bị cáo và trả lại xe mô tô cho chủ sở hữu là có căn cứ và đúng pháp luật nên được ghi nhận.

[11] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Kim A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 153; các điểm h, p khoản 1 Điều 46, các Điều 33, 45 Bộ luật Hình sự năm 1999. Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kim A phạm tội: “Buôn lậu”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim A 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 09/5/2018.

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Kim A phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

765
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2018/HS-ST ngày 20/07/2018 về tội buôn lậu

Số hiệu:61/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chi Lăng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về