Bản án 61/2017/HSST ngày 27/11/2017 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 61/2017/HSST NGÀY 27/11/2017 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 72/2017/HSST, ngày 15 tháng 11 năm 2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ Ngọc S; Tên gọi khác: SK; Sinh năm 1991; Nơi sinh: Tại tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn b, xã ĐR, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông; Chỗ ở trước khi phạm tội: Không nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Con ông Hồ Ngọc K, sinh năm 1968. Hiện đang thi hành án tại trại giam Gia Trung – Bộ Công an

Con bà Trần Thị H, sinh năm 1970; Trú tại: Thôn 7, xã ĐR, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông; Bị cáo là con thứ 01 trong gia đình có 03 anh, chị em; Biện pháp ngăn chặn được áp dụng: Ngày 21/10/2017 đến Công an huyện Đắk Mil đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 22/10/2017, sau đó chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Mil.Có mặt.

- Người bị Hại: Viên Đình T (vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ dân phố a, phường ĐK, thị xã BH, tỉnh Đắk Lắk.

NHẬN THẤY

Bị cáo Hồ Ngọc S bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào ngày 16/7/2016, Đinh Hồng P (sinh năm 1976, trú tại xã DH, huyện DC, tỉnh Nghệ An) bàn bạc với Nguyễn Công H (sinh năm 1994, trú tại xã NT, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An) và Hồ Ngọc S về việc cùng nhau đi đến một số vựa thu mua sầu riêng trên địa bàn xã ĐM và xã ĐN, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông thu tiền “bến bãi” (tiền bảo kê) các xe ô tô đến thu mua sầu riêng để lấy tiền tiêu xài thì được Hồ Ngọc S và Nguyễn Công H đồng ý. Đến khoảng 19 giờ 00 cùng ngày, Nguyễn Công H điều khiển xe mô tô biển số 59D1 – 019.90 (xe do Đinh Hồng P mượn của Võ Thanh T, trú tại xã TA, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông để sử dụng) chở Đinh Hồng P và Hồ Ngọc S đến vựa thu mua sầu riêng của chị Trương Thị Kim A và anh Nguyễn Ngọc L tại thôn b, xã ĐN, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông thì thấy có xe ô tô biển số 47C – 127.87 (do anh Viên Đình T, trú tại tổ dân phố a, phường ĐK, thị xã BH, tỉnh Đắk Lắk làm chủ) đang bốc sầu riêng. Đinh Hồng P yêu cầu anh Nguyễn Ngọc L cho gặp tài xế xe ô tô biển số 47C – 127.87 để thu tiền “bến bãi” và yêu cầu anh Nguyễn Ngọc L không được bán sầu riêng cho ai khác mà phải bán cho Đinh Hồng P; nếu có người đến thu mua sầu riêng phải thông qua cho nhóm Đinh Hồng P biết. Khi thấy nhóm Đinh Hồng P đến, chị Trương Thị Kim A nói anh Viên Đình T điều khiển xe ô tô biển số 47C – 127.87 đi thì Nguyễn Công H và Hồ Ngọc S chặn trước đầu xe không cho xe di chuyển, yêu cầu anh Viên Đình T phải nộp 500.000 đồng tiền “bến bãi”. Anh Viên Đình T năn nỉ xin giảm bớt tiền nhưng Nguyễn Công Hiến và Hồ Ngọc Sơn không đồng ý và nói đây là lệnh của Đinh Hồng P, nếu anh Viên Đình T không nộp tiền thì xe không được đi. Anh Viên Đình T tiếp tục năn nỉ thì Đinh Hồng P quát lớn buộc anh Viên Đình T phải đưa tiền. Do sợ bị nhóm của Đinh Hồng P đánh, anh Viên Đình T lấy 200.000 đồng đưa cho Nguyễn Công H. Sau khi nhận tiền, Hồ Ngọc S nói với anh Viên Đình T lần sau đến huyện Đắk Mil mua hàng thì phải liên hệ với nhóm của Đinh Hồng P, rồi Hồ Ngọc S cùng Đinh Hồng P và Nguyễn Công H điều khiển xe mô tô biển số 59D1 – 019.90 bỏ đi. Sau đó, Nguyễn Công H đưa tiền cho Đinh Hồng P và Đinh Hồng P đã sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân hết. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Hồ Ngọc S bỏ trốn khỏi địa phương, đến ngày 21/10/2017, Hồ Ngọc S đến Công an huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông đầu thú.

Tại bản cáo trạng số 72/CTr-VKS ngày 14/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil đã truy tố bị cáo Hồ Ngọc S về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil đã phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Hồ Ngọc S về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, áp dụng: điểm a khoản 2 Điều 135;điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt: đề nghị xử phạt bị cáo Hồ Ngọc S 03 năm đến 3 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/10/2017

-  Về  trách  nhiệm  dân  sự:  đã  được  giải  quyết  trong  bản  án  số  số 34/2017/HSST ngày 09/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, người bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

- Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho anh Viên Đình T số tiền 500.000 đồng, nhưng do ông Viên Đình T không có mặt tại địa phương nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil đã nộp vào tài khoản tạm gửi của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil.

- Vật chứng của vụ án:đã được tách ra xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HSST ngày 09/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận, bào chữa gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ phần hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát.

XÉT THẤY

Tại phiên toà, bị cáo Hồ Ngọc S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận:Vào khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 16/7/2016, tại vựa mua bán nông sản của chị Trương Thị Kim A và Nguyễn Ngọc L, địa chỉ thôn b, xã Đắk N’drót, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, Đinh Hồng P, Nguyễn Công H và Hồ Ngọc S đã có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ cùng thực hiện uy hiếp tình thần và  đe dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt của anh Viên Đình T là chủ xe ô tô tải biển số 47C – 127.87 đang thu mua sầu riêng với số tiền là 200.000 đồng.

Xét quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Hồ Ngọc S phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự .

Bị cáo Hồ Ngọc S cùng với Đinh Hồng P, Nguyễn Công H đã có sự bàn bạc và phân công nhiệm vụ cho từng người để thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo cùngvới P, H đã có hành vi uy hiếp tình thần và đe dọa dùng vũ lực đối với ông Viên Đình T để nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của ông T với số tiền 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) với mục đích lấy để sử dụng cá nhân. Theo khoản 1 và khoản2 Điều 135 của Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Có tổ chức;…”. Như vậy, hành vi của bị cáo S đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản” .

Xét hành vi của bị cáo gây ra rất nghiêm trọng. Hành vi cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, là hành vi đe dọa gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, danh dự, uy tín bằng bất cứ thủ đoạn nào, nếu người bị uy hiếp không thỏa mãn yêu cầu về tài sản của người phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, táo bạo, xem thường pháp luật, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản, sức khỏe, danh dự, uy tín của công dân được pháp luật bảo hộ, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Chỉ vì lòng tham tư lợi, muốn có tiền để tiêu xài cách nhanh chóng, bị cáo đã cùng Đinh Hồng P, Nguyễn Công H dùng lời lẽ đe dọa, hù dọa bằng vụ lực để chiếm đoạt của ông Viên Đình Tsố tiền 200.000 đồng.

Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần có một mức án thật tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm gây ra để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội. Đồng thời đây còn là bài học cho những ai có ý định xâm phạm tài sản thuộc sở hữu của người khác.

Về nhân thân của bị cáo: Ngày 10/8/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại điểm a khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Ngày 28/9/2011, bị Tòa án nhân dân Tp.Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, quy định tại Điều 250 của Bộ luật hình sự. Áp  dụng  Điều  51  của  Bộ  luật  hình  sự,  tổng  hợp  hình  phạt  với  bản  án  số 34/2011/HSST ngày 10/8/2011 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 03 năm tù. Ngày 26/4/2013, chấp hành xong hình phạt, trở về địa phương sinh sống, đến ngày 16/7/2016 bị cáo cùng Đinh Hồng P, Nguyễn Công H thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản của ông Viên Đình T với số tiền 200.000 đồng. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật: Như trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và bị cáo đã thực sự tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Bị cáo đã tác động với gia đình để bồi thường cho người bị hại với số tiền 500.000 đồng, đây là tình tiết giảm nhẹ “ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại…”. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương, cơ quan Điều tra công an huyện Đắk Mil đã ra quyết định truy nã và ngày 21/10/2017, bị cáo đã ra đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội; có tác dụng răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét hoàn cảnh kinh tế của bị cáo: qua xác minh, bị cáo không có nơi ở ổn định, không có tài sản riêng, không thu nhập, không có công việc ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: đã được giải quyết trong bản án số 34/2017/HSST ngày 09/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.Người bị hại ông Viên Đình T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đặt ra để giải quyết. Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho anh Viên Đình T số tiền 500.000 đồng, nộp tại cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Đắk Mil và đã chuyển vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil tại Kho bạc huyện Đắk Mil theo giấy nộp tiền 0001498, ngày 13/11/2017, nên cần chấp nhận bị cáo và gia đình bị cáo bồi thường cho người bị hại.

Vật chứng của vụ án: Đã được tách ra xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HSST ngày 09/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

Trong vụ án này còn có vấn đề khác:

Đối với hành vi phạm tội của Đinh Hồng P và Nguyễn Công H đã được tách ra xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HSST ngày 09/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Ngọc S (SK) phạm tội: “Cưỡng đoạt tài sản”.

2. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 135; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tuyên phạt bị cáo Hồ Ngọc S (SK) 03 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/10/2017.

3. Về trách nhiệm dân sự: Đã được xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HSST ngày 09/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông. Chấp nhận bị cáo đã tác động và gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền500.000 đồng (năm trăm) cho ông Viên Đình T, số tiền 500.000 đồng đã Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil đã nộp vào tài khoản tạm gửi của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil tại Kho bạc huyện Đắk Mil theo giấy nộp tiền theo giấy nộp tiền 0001498, ngày 13/11/2017.

4. Vật chứng của vụ án: Đã được tách ra xử lý trước bằng bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HSST ngày 09/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

5.  Căn  cứ  Điều  99  Bộ  luật  tố  tụng  hình  sự;  áp  dụng  Nghị  quyết  số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hồ Ngọc S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo:

6.1. Bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

6.2. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo toàn bộ bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

514
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2017/HSST ngày 27/11/2017 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:61/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về