Bản án 60/2021/HS-ST ngày 13/08/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN – TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 60/2021/HS-ST NGÀY 13/08/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ  

Ngày 13 tháng 8 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 50/2021/HSST, ngày 11 tháng 6 năm 2021 đối với:

* Bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Quyền T - Tên gọi khác: Không; sinh ngày 13 tháng 7 năm 1991, tại Bắc Kạn; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Đi 2, xã Q, huyện C, tỉnh Bắc Kạn; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12;

Họ và tên cha: Nguyễn Quốc C, sinh năm 1970 Họ và tên mẹ: Lường Thị H, sinh năm 1971;

Đều trú tại: Thôn Đi 2, xã Q, huyện C, tỉnh Bắc Kạn;

Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo Nguyễn Quyền T đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa).

* Những người bị hại:

1. Chu Văn D, sinh năm 1994; Trú tại: Thôn N, xã Đ, huyện N, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Chu Văn D: Bà Nguyễn Phương Bằng – Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Bắc Kạn (có mặt).

2. Hoàng Văn T, sinh năm 1981; Trú tại: Thôn N, xã Đ, huyện N, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

3. Hà Văn B, sinh năm 1988; Trú tại: Thôn K, xã T, huyện C, tỉnh Bắc Kạn (vắng mặt).

* Bị đơn dân sự đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thành C, sinh năm 1975; Trú tại: Thôn Đi 2, xã Q, huyện C, tỉnh Bắc Kạn (có mặt).

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chu Văn Ch, sinh năm 1973; Trú tại: Thôn N, xã Đ, huyện N, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

2. Nguyễn Quốc C, sinh năm 1970; Trú tại: Thôn Đi 2, xã Q, huyện C, tỉnh Bắc Kạn (có mặt).

3. Hà Thị M, sinh năm 1971; Trú tại: Thôn N, xã Đ, huyện N, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).

4. Mùng Văn T, sinh năm 1990; Trú tại: Thôn A, xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).

5. công ty bảo hiểm BSH Thái Nguyên (vắng mặt).

* Người làm chứng: Hà Nhân N, sinh năm 1994; Trú tại: Thôn R, xã T, huyện C, tỉnh Bắc Kạn (vắng mặt).

3. Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên toà: không có.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ 30 phút ngày 20/7/2020 Mùng Văn T, sinh năm 1990, trú tại thôn A, xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang điều khiển xe ô tô BKS 22C - 057.37 xuất phát từ Thôn N, xã Đ, huyện N, tỉnh Tuyên Quang theo hành trình Na Hang (Tuyên Quang) - Chợ Đồn (Bắc Kạn) - TP Bắc Kạn - Thái Nguyên - Hà Nội. Trên xe còn có anh Hoàng Văn T, sinh năm 1981 và anh Chu Văn D, sinh năm 1994 (đều trú tại: Thôn Nà Pục, xã Đà Vị, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang) đi cùng. Khoảng 02 giờ ngày 21/7/2020 khi đi đến địa phận thành phố Bắc Kạn thì anh TH phát hiện bánh xe (lốp xe) sau bên phụ bị thủng săm, sau đó Hoàng Văn T gọi cho anh Hà Văn B - Sinh năm 1988, trú tại xã M, huyện C, tỉnh Bắc Kạn (tạm trú tại: Tổ 7, phường Xuất Hóa, TP Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn) để sửa xe, đến đoạn Km 143 + 600 Quốc lộ 3 thuộc tổ 7, phường Xuất Hóa, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã cho xe đỗ lại sát lề đường bên phải hướng Cao Bằng - Hà Nội (trên phần đường dành cho xe thô sơ. Hai bánh xe bên lái nằm trên vạch kẻ đường màu trắng, đầu xe hướng Hà Nội, đuôi xe hướng Cao Bằng), anhB điều khiển xe ô tô BKS 16L - 6635 đi theo sau và đỗ xe ngược chiều (đầu xe hướng Cao Bằng, đuôi xe hướng Hà Nội) gần sát đuôi xe BKS 22C - 057.37 (xe ô tô của anh B cũng đỗ trên phần đường dành cho xe thô sơ. Hai bánh bên phụ nằm trên vạch kẻ đường màu trắng). Đi cùng với anhB còn có Hà Nhân N, sinh năm 1994, trú tại thôn Roỏng Tùm, xã Thanh Mai, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Sau khi đỗ xe anhB bật đèn tín hiệu xi nhan đôi và có để cách đầu xe ô tô BKS 16L - 6635 01 (một) cột phản quang để cảnh báo nguy hiểm cho các phương tiện. Trong lúc anhB và anh Nghiệp sửa xe (vá săm lốp sau bên phụ xe ô tô BKS 22C- 057.37) anhT và anh Dũng xuống xe xem và soi đèn hộ còn anh TH nằm ngủ ở trên cabin xe ô tô BKS 22C - 057.37. Khi mọi người đang sửa xe thì bất ngờ có chiếc xe ô tô BKS 22C - 017.25 do Nguyễn Quyền T điều khiển hướng Cao Bằng - Hà Nội đi đến và đâm vào phần đầu xe bên phụ của chiếc xe ô tô BKS 16L - 6635 khiến xe ô tô bị đẩy lùi về phía sau và tiếp tục va chạm với xe ô tô BKS 22C - 057.37. Hậu quả làm anh Dũng, anhB, anhT bị thương, 03 xe ô tô bị hư hỏng.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường bị xáo trộn một phần do quá trình đưa người bị thương đi cấp cứu. Hiện trường xảy ra vụ tai nạn là đoạn đường thẳng, hơi xuống dốc hướng Bắc Kạn - Hà Nội. Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đường hai chiều có vạch sơn màu trắng đứt đoạn chia đôi làn đường, lòng đường rộng 10m80, phần đường xảy ra tai nạn rộng 3m10, đường không bị che khuất, mặt đường rải nhựa áp phan bằng phẳng, không duy tu cải tạo.

Ghi nhận việc đánh số thứ tự theo số tự nhiên vị trí nạn nhân, phương tiện, tang vật, dấu vết: + Vị trí số 1 là xe ô tô BKS: 16L – 6635;

+ Vị trí số 2 là nhóm dấu vết gồm dấu vết màu nâu đỏ, mảnh nhựa vỡ lót lốp cao su và giẻ lau;

+ Vị trí số 3 là xe ô tô BKS: 22C – 05737;

+ Vị trí số 4 là nhóm dấu vết gồm 02 lốp xe và vành xe;

+ Vị trí số 5 là xe ô tô BKS 22C - 01725.

Xác định điểm mốc và một trong các mép đường nơi xảy ra tai nạn làm chuẩn: Lấy cột mốc H6/143 bên trái của đường Quốc lộ 3 hướng Bắc Kạn - Hà Nội làm mốc chuẩn; lấy mép phải đường Quốc lộ 3 hướng Bắc Kạn - Hà Nội làm mép chuẩn.

Tại hiện trường phát hiện:

Tại rìa đường bên phải hướng Bắc Kạn - Hà Nội phát hiện xe ô tô biển kiểm soát 16L - 6635 dừng đỗ, đầu xe hướng Cao Bằng, đuôi xe hướng Hà Nội, quan sát phía trước đầu xe thấy có một số mảnh nhựa vỡ. Quy định là vị trí số 1. Đo đạc cụ thể như sau: Từ trục trước bên phụ vị trí số 1 đến mốc chuẩn là 16m40 và đến mép chuẩn là 1m20; từ trục sau bên phụ vị trí số 1 đến mốc chuẩn là 14m20 và đến mép chuẩn là 1m30; từ trục sau bên lái vị trí số 1 đến mốc chuẩn là 15m và nằm trên mép chuẩn. Quan sát thấy ô tô dừng đỗ phía trong vạch liền tại mép đường bên phải.

Quan sát tại khu vực đuôi xe vị trí số 1 và khu vực gần bên trái bánh xe bên phụ phía sau vị trí 1 phát hiện nhóm dấu vết gồm dấu vết màu nâu đỏ, mảnh nhựa vỡ, lót lốp cao su và giẻ lau nằm trên mặt đường tập trung trong diện 2m10 x 1m10. Quy định là vị trí số 2. Đo đạc: Từ tâm vị trí số 2 đến mốc chuẩn là 13m và đến mép chuẩn là 1m40.

Gần vị trí số 1 và vị trí số 2 về hướng Hà Nội là xe ô tô biển kiểm soát 22C - 05737 dừng đỗ tại rìa đường, đầu xe hướng Hà Nội, đuôi xe hướng Cao Bằng. Hai bánh xe bên lái nằm trên vạch liền màu trắng, quy định là vị trí số 3. Đo đạc: Từ trục trước bên lái vị trí số 3 đến mốc chuẩn là 9m84 và đến mép chuẩn là 1m78; Từ trục sau bên lái vị trí số 3 đến mốc chuẩn là 11m20 và đến mép chuẩn là 1m7; Quan sát xe ô tô thấy bánh xe phía sau bên phụ đã bị tháo rời khỏi trục. Từ trục sau bên phụ vị trí số 1 đến trục sau bên lái vị trí số 3 là 4m; Từ trục sau bên lái vị trí số 1 đến trục sau bên phụ vị trí số 3 là 3m80.

Tại khu vực phía bên phải vị trí số 3 phát hiện nhóm dấu vết gồm 02 lốp xe ô tô, vành xe và săm ô tô tập trung trong diện 3m30 x 1m30. Quan sát thấy 01 lốp xe đang được để dựa vào sườn bên phải vị trí số 3. Quy định là vị trí số 4. Đo đạc: Từ tâm vị trí số 4 đến mốc chuẩn là 13m30 và đến mép chuẩn là 70cm.

Mở rộng hiện trường về hướng Cao Bằng khoảng 200m phát hiện xe ô tô BKS 22C – 01725 dừng đỗ tại rìa đường bên phải đường Quốc lộ 3 hướng Hà Nội – Cao Bằng, đầu xe hướng Cao Bằng, đuôi xe hướng Hà Nội quy định là vị trí số 5, tại mặt ngoài của bánh xe phía trước (phần trục) bên phụ phát hiện có dấu vết màu nâu đỏ nhỏ giọt. Đo đạc: Từ trục sau bên phụ vị trí số 5 đến cột mốc H8/143 được đựng trên mép phải đường Quốc lộ 3 hướng Hà Nội – Cao Bằng là 1m33; Từ trục trước bên phụ vị trí số 5 đến cột mốc H8/143 là 2m80 và đến mép phải đường Quốc lộ 3 hướng Hà Nội – Cao Bằng là 45cm.

Quan sát tại hiện trường với khoảng cách 5m – 6m về hướng Cao Bằng phát hiện 01 cột tiêu hình nón (cột cảnh báo) bằng nhựa màu cam trắng được dựng tại khu vực gần giữa lòng đường của làn đường bên phải hướng Cao Bằng – Hà Nội.

Khám nghiệm phương tiện xe ô tô BKS 22C – 05737: Tại phần khung sườn xe bên phụ (khung thùng xe) phía trước bánh sau bị móp khung kích thước 25cm x 7cm; Tại cụm đèn chiếu sáng và đèn tín hiệu phía sau bên lái bị vỡ kích thước 25cm x 5cm.

Khám nghiệm phương tiện xe ô tô BKS 16L - 6635: Ốp kim loại phía trước phía trên ốp nhựa bảo vệ lưới tản nhiệt bị móp lõm, bong tróc sơn kích thước 80cm x 50cm; Ốp nhựa bảo vệ phần lưới tản nhiệt tách nước phía trước bị gẫy vỡ, biến dạng, bung chốt hãm kích thước 92cm x 20cm; Ba đờ sốc phía trước bị móp lõm, biến dạng chiều hướng từ trước về sau kích thước 160cm x 37cm; Thanh kim loại phía trong ba đờ sốc bị cong gập từ trước về sau; Ốp kim loại phía trước bên phụ dưới chân gương bên phụ bị phồng dồn từ sau về trước;

Cụm đèn chiếu sáng phía trước bên phụ phần bên trong của đèn bị vỡ để lộ phần dây dẫn điện; Cánh cửa bên phụ bị kẹt với nắp ốp kim loại phía trước không đóng được cửa; Cánh cửa bên lái không đóng được; Biển kiểm soát phía trước bị cong gập phần đầu bên phụ.

Khám nghiệm phương tiện xe ô tô BKS 22C - 01725: Tại phần ốp kim loại phía trước lưới tản nhiệt (nắp capô) bị móp lõm kích thước 70cm x 30cm; Ba đờ sốc phía trước phía dưới phần biển số xe bị móp, lõm, nứt vỡ kích thước 50cm x 7cm; Cụm đèn chiếu sáng phía trước bên phụ bị bung bật vỡ kính bên ngoài kích thước 28cm x 25cm; Xe, tại phần đầu xe có nhiều vết trượt xước, gẫy đã cũ.

Ngày 04/8/2020 Cơ quan CSĐT công an thành phố Bắc Kạn trưng cầu giám định an toàn kỹ thuật phương tiện xe ô tô BKS 22C - 017.25. Tại biên bản giám định kỹ thuật ngày 11/8/2020 của Sở giao thông vận tải tỉnh Bắc Kạn kết luận:

1. Tại thời điểm kiểm tra hệ thống an toàn của xe. Hệ thống phanh, hệ thống lái, hệ thống đèn, còi đảm bảo an toàn kỹ thuật.

2. Tại thời điểm xảy ra tai nạn ngày 21/7/2020 thời hạn Giấy chứng nhận kiểm định ATKT & BVMT phương tiện cơ giới đường bộ số KD – 1755703 còn hiệu lực (có hiệu lực đến hết ngày 20/10/2020)”.

Về người:

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 162/TgT ngày 17/8/2020 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Bắc Kạn kết luận thương tích của Hoàng Văn T như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Gãy cung tiếp xương gò má trái; Sẹo phần mềm ở gò má trái.

2. Căn cứ Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT – BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 11,73 % (mười một phảy bảy mươi ba phần trăm) (làm tròn số là 12%)”.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 172/TgT ngày 10/9/2020 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Bắc Kạn kết luận thương tích của Hà Văn B như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Thủng ruột non vị trí hồi tràng (đã phẫu thuật khâu phục hồi); Sẹo mổ ở đường trắng giữa trên rốn và dưới rốn; Sẹo dẫn lưu vùng bụng bên phải.

2. Căn cứ Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT – BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 30,85 % (ba mươi phảy tám mươi năm phần trăm) (làm tròn số là 31%)”.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 173/TgT ngày 10/9/2020 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Bắc Kạn kết luận thương tích của Chu Văn D như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Gãy xương hàm dưới (đã phẫu thuật nẹp vít cố định xương hàm); Gãy nhu mô phổi thùy giữa, thùy dưới phổi phải và thùy giữa phổi trái; Gãy xương mỏm bả vai phải; Gãy xương sườn 1,2,3,4 bên phải; Sẹo mổ ngực bên phải (mổ nẹp vít xương sườn số 2,3); Sẹo vết thương phầm mềm, sẹo mổ ở cằm trái; Sẹo mổ ở dẫn lưu khoang màng phổi phải; Sẹo mổ ở dẫn lưu khoang màng phổi trái; Sẹo vết thương phầm mềm ở ½ ngoài cung lông mày trái.

2. Căn cứ Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT – BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 35,83 % (ba mươi năm phảy tám mươi ba phần trăm) (làm tròn số là 36%)”.

Về tài sản:

Cơ quan điều tra đã trưng cầu định giá tài sản. Tại kết luận định giá tài sản ngày 07/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Bắc Kạn kết luận:

+ 01 (một) xe ô tô tải nhãn hiệu TERACO BKS 22C - 057.37, xe cũ đã qua sử dụng, bị hư hỏng do tai nạn giao thông. Giá trị thiệt hại là 1.500.000,đ (một triệu năm trăm nghìn đồng chẵn);

+ 01 (Một) xe ô tô tải BKS 22C – 017.25, xe cũ đã qua sử dụng, bị hư hỏng do tai nạn giao thông. Giá trị thiệt hại là 3.850.000,đ (ba triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng chẵn);

+ 01 (Một) xe ô tô BKS 16L - 6635, nhãn hiệu KIA màu sơn xanh, xe cũ đã qua sử dụng, bị hư hỏng do tai nạn giao thông. Giá trị thiệt hại là 4.500.000,đ (bốn triệu năm trăm nghìn đồng chẵn).

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Quyền T thừa nhận: Sáng ngày 20/7/2020 Nguyễn Quyền T điều khiển xe ô tô BKS 22C - 017.25 từ nhà ở xã Quảng Chu, Chợ Mới, Bắc Kạn lên tỉnh Cao Bằng, cùng đi với T có Nguyễn Thành Long, sinh năm 2003, trú tại Thôn Đi 2, xã Q, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Khoảng 15 giờ 00 phút T từ Cao Bằng về, đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 21/7/2020 đến Km 143 + 600 Quốc lộ 3 thuộc tổ 7, phường Xuất Hóa, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, do không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ, lấn phần đường nên đã đâm vào phần đầu bên phụ xe ô tô BKS 16L - 6635 đang dừng đỗ tại lề đường bên phải theo chiều đi của T (đầu xe hướng Cao Bằng, đuôi xe hướng Hà Nội) khiến xe ô tô BKS 16L - 6635 bị đẩy lùi về phía sau và tiếp tục va chạm với xe ô tô BKS 22C - 057.37 đang dừng đỗ tại lề đường bên phải theo chiều đi của T (đầu xe hướng Hà Nội, đuôi xe hướng Cao Bằng) làm cho một số người đang hộ nhau sửa chữa (thay lốp xe) của xe BKS 22C - 057.37. Hậu quả làm 03 người bị thương; 03 xe ô tô bị hư hỏng.

Lời khai của Nguyễn Quyền T phù hợp với lời khai của Chu Văn D, Hoàng Văn T, Hà Văn B, Mùng Văn T, Hà Nhân N các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tiến hành kiểm tra nồng độ cồn trong khí thở của Nguyễn Quyền T xác định trong khí thở không có nồng độ cồn. Tại thời điểm xảy ra tai nạn Nguyễn Quyền T có giấy phép lái xe hạng C.

Về vật chứng của vụ án gồm:

Đối với xe ô tô nhãn hiệu TERACO, BKS 22C - 057.37; 01 (Một) giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT số 1765002; 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số 0143078; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 011224 do phòng CSGT công an tỉnh Tuyên Quang cấp ngày 21/3/2018 xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại những tài sản trên cho Mùng Văn T.

Đối với xe ô tô nhãn hiệu KIA màu xanh, BKS 16L – 6635; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT số 2327938; 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự số 90236522; 01 (một) cột tiêu hình nón màu cam xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại những tài sản trên cho Hà Văn B.

Đối với các đồ vật, tài sản khác đã tạm giữ, gồm:

- 01 (Một) xe ô tô tải BKS 22C - 017.25 bị hư hỏng do tai nạn giao thông;

- 01 đăng ký xe ô tô số 033157 do phòng CSGT công an thành phố Hải Phòng cấp ngày 01/11/2007;

- 01 giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT số 1755703 (có giá trị đến ngày 20/10/2020);

- 01 giấy chứng nhận đăng kí xe ô tô số 004812 do phòng CSGT công an tỉnh Tuyên Quang cấp ngày 21/10/2013;

- 01 (Một) giấy phép lái xe số 190124191398 mang tên Nguyễn Quyền T.

- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số DK20/0030352.

Về trách nhiệm dân sự:

* Trong quá trình điều tra bị hại Chu Văn D yêu cầu Nguyễn Quyền T bồi thường số tiền 145.803.088,đ (một trăm bốn mươi năm triệu tám trăm linh ba nghìn không trăm tám tám đồng). Tuy nhiên trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa bị hại Chu Văn D thay đổi mức bồi thường và đề nghị chủ phương tiện ông Nguyễn Thành công phải bồi thường cụ thể các khoản sau:

+ Tiền thuê chuyển viện từ bệnh viện Bắc Kạn xuống bệnh viện trung ương Thái Nguyên: 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng); (Không có hoá đơn)

+ Tiền thuê xe đón ra viện từ Thái Nguyên về Đà Vị, thị trấn Na Hang, huyện Na Hang, Tuyên Quang 3.000.000đ (ba triệu đồng) .

+ Bộ nẹp hàm tự tiêu: 15.500.000đ (mười năm triệu, năm trăm nghìn đồng) có hóa đơn;

+ Vít neo: 4.800.000đ (bốn triệu tám trăm nghìn đồng) có hóa đơn;

+ Tiền mua thuốc: 1.250.000đ (một triệu hai trăm năm mươi nghị đồng);

+ Tiền viện phí: 15.103.088đ (mười lăm triệu, một trăm linh ba nghìn, không trăm tám mươi tám đồng);

+ Tiền bồi thường thu nhập bị mất trong thời gian nằm viện từ ngày 21/7/2020 đến ngày 20/8/2020 là 300.000đ x 30 ngày = 9.000.000đ (chín triệu đồng);

+ Tiền bồi thường thu nhập cho người chăm sóc trong thời gian điều trị: 250.000 x 30 = 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng);

+ Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm hại: 74.500.000đ (bảy mươi tư triệu, năm trăm nghìn đồng);

+ Tiền thu nhập thực tế bị mất trong thời gian chờ phục hồi sứ khỏe tại nhà để tiếp tục điều trị theo chỉ định của bác sỹ 06 tháng bằng số tiền 54.000.000đ (năm mươi bốn triệu đồng).

Tổng số tiền yêu cầu Nguyễn Thành công phải bồi thường là 186.853.088đ (một trăm tám mươi sáu triệu tám trăm năm ba nghìn không trăm tám tám nghìn đồng) Quá trình điều tra T đã bồi thường được 7.000.000,đ (bảy triệu đồng), tại phiên tòa T tiếp tục bồi thường được 2.000.000đ (hai triệu đồng) cho Chu Văn D.

* Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại Hoàng Văn T yêu cầu Nguyễn Quyền T bồi thường số tiền 20.000.000,đ (hai mươi triệu đồng) gồm các khoản:

+ Viện phí thuốc men: 10.230.000đ (mười triệu hai trăm ba mươi nghìn đồng) có hóa đơn.

+ Chi phí đi lại, ăn uống, người phục vụ, công không lao động 07 ngày điều trị : 9.770.000đ (chín triệu, bảy trăm bảy mươi nghìn đồng) không có hóa đơn.

Quá trình điều tra T đã bồi thường được 2.000.000,đ (hai triệu đồng) , tại phiên tòa T tiếp tục bồi thường được 2.000.000đ (hai triệu đồng) cho Hoàng Văn T.

Bị hại Hà Văn B đã được Nguyễn Quyền T bồi thường số tiền 2.000.000,đ (hai triệu đồng). Đến nay anhB không có yêu cầu đề nghị gì thêm.

Đối với xe ô tô BKS 22C – 057.37 của Mùng Văn T cũng bị hư hỏng sau vụ tai nạn giao thông. Tuy nhiên Mùng Văn T không có yêu cầu đề nghị.

Đối với công ty Bảo hiểm BSH Thái Nguyên liên quan đến Giấy chứng nhận Bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số DK20/0030352 cấp ngày 20/4/2020. Tại công văn số 59 ngày 10/5/2021 của công ty bảo hiểm BSH Thái Nguyên thể hiện: Theo Thông tư số 22/2016/TT – BTC thì mức bồi thường tối đa về tài sản là 100.000.000,đ (một trăm triệu đồng)/1 vụ và 100.000.000,đ (một trăm triệu đồng)/1 vụ đối với người. Việc chi trả tiền bồi thường trực tiếp cho chủ xe hoặc người được bảo hiểm. Đồng thời tại công văn có nêu công ty Bảo hiểm BSH không tham gia tố tụng.

Bản cáo trạng số: 32/CT-VKSTPBK ngày 09/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Nguyễn Quyền T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm công khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều luật có nội dung:

“ 1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a, ...;

c, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.” * Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng đã nêu. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Quyền T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Áp dụng điểm công khoản 1, Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65/BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quyền T từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 48 BLHS, các Điều 584, 585, 590 và Điều 600, Điều 601 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc Bị đơn dân sự đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thành công bồi thường cho bị hại: Chu Văn D các khoản chi phí hợp lý bằng số tiền 88.153.088,đ. Xác nhận bị cáo T đã tự nguyện bồi thường cho anh Dũng trong quá trình điều tra 7.000.000,đ (bảy triệu đồng) và tại phiên tòa 2.000.000,đ (hai triệu đồng).

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Nguyễn Quyền T và Hoàng Văn T về số tiền bồi thường thiệt hại sức khỏe với số tiền là 20.000.000,đ (hai mươi triệu đồng). được trừ 2.000.000,đ (hai triệu đồng) số tiền bị cáo đã bồi thường tại tòa. Bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường 18.000.000đ (mười tám triệu Đồng). Đối với số tiền 2.000.000,đ (hai triệu đồng) bị cáo đã bồi thường trong quá trình điều tra hai bên thỏa thuận không tính trong số tiền 20.000.000đ.

- Về vật chứng của vụ án áp dụng Điều 46/BLHS, và Điều 106/Bộ luật tố tụng Hình sự xử lý theo quy định.

- Về án phí phải chịu theo quy định của pháp luật.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Chu Văn D đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 584, 585, 590 và Điều 600, Điều 601của Bộ luật Dân sự năm 2015. Buộc Nguyễn Thành công bồi thường cho bị hại Chu Văn D các khoản thuốc men, viện phí, công không lao động được trong thời gian điều trị, bồi thường tổn hại sức khỏe tổn thất tinh thần bằng một khoản tiền là 186.853.088đ (một trăm tám mươi sáu triệu tám trăm năm ba nghìn không trăm tám tám nghìn đồng).

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại trong quá trình điều tra, truy tố xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[2]. Về tội danh: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Nguyễn Quyền T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo là có căn cứ, phù hợp với các lời khai của người bị hại, người làm chứng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở để khẳng định:

Khong hơn 02 giờ 30 phút ngày 21/7/2020, Nguyễn Quyền T điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 22C - 017.25 đi theo hướng Bắc kạn - Hà Nội, đến Km 143 + 600 Quốc lộ 3, thuộc tổ 7, phường Xuất Hóa, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, mặc dù đây là đoạn đường thẳng, không bị che khuất tầm nhìn, nhưng Nguyễn Quyền T không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ, điều khiển xe đi không đúng phần đường, nên đã đâm vào xe ô tô BKS 16L – 6635 của anh Hà Văn B đang đỗ ở phần lề đường bên phải cùng chiều với xe ô tô do T (Bị cáo) điều khiển, khiến xe ô tô Biển kiểm soát 16L-6635 bị đẩy lùi về phía sau và tiếp tục va chạm vào xe ô tô BKS 22C - 057.37 của anh Mùng Văn T điều khiển đang đỗ phía sau xe của anhB để sửa chữa lốp xe. Hậu quả làm 03 người bị thương với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 79%, trong đó: anh Chu Văn D bị thương tích 36%, anh Hoàng Văn T bị thương tích 12% và anh Hà Văn B bị thương tích 31%. Ngoài ra còn gây thiệt hại về tài sản đối với xe ô tô biển kiểm soát 22C-5737 do anh Mùng Văn T điều khiển là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) và gây thiệt hại về tài sản đối với xe ô tô biển kiểm soát 16L- 6635 do anh Hà Văn B điều khiển là 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng) và xe ô tô biển kiểm soát 22C – 017.25 của anh Nguyễn Thành công là 3.850.000 đồng (ba triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).

Hành vi nêu trên của bị can là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại đến sức khỏe và tài sản của người khác.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn truy tố Nguyễn Quyền T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm công khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa Nguyễn Quyền T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần tiền cho các bị hại; Bị hại Hà Văn B có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, do vậy bị cáo được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, do vậy cần áp dụng Điều 65/ BLHS cho bị cáo được hưởng án treo.

Đối với các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là có căn cứ nên được HĐXX xem xét khi quyết định hình phạt.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị hại:

* Bị hại Chu Văn D và bố đẻ ông Chu Văn Ch (người được Dũng ủy quyền) và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chu Văn D bà Nguyễn Phương Bằng) yêu cầu chủ xe ô tô tải BKS 22C - 017.25 ông Nguyễn Thành công phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho Dũng số tiền là 186.853.088đ (một trăm tám mươi sáu triệu tám trăm năm ba nghìn không trăm tám tám nghìn đồng).

Hội đồng xét xử thấy các chi phí của bị hại là thực tế tuy nhiên mức yêu cầu là cao. Hội đồng xét xử thấy có cơ sở để chấp nhận các khoản sau:

+ Tiền thuê chuyển viện từ bệnh viện Bắc Kạn xuống bệnh viện trung ương Thái Nguyên: 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng); (Không có hoá đơn) + Tiền thuê xe đón ra viện từ Thái Nguyên về Đà Vị, thị trấn Na Hang, huyện Na Hang, Tuyên Quang 3.000.000đ (ba triệu đồng) .

+ Bộ nẹp hàm tự tiêu: 15.500.000đ (mười năm triệu, năm trăm nghìn đồng) có hóa đơn;

+ Vít neo: 4.800.000đ (bốn triệu tám trăm nghìn đồng) có hóa đơn;

+ Tiền mua thuốc: 1.250.000đ (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng);

+ Tiền viện phí: 15.103.088đ (mười lăm triệu, một trăm linh ba nghìn, không trăm tám mươi tám đồng);

+ Tiền bồi thường thu nhập bị mất trong thời gian nằm viện từ ngày 21/7/2020 đến ngày 20/8/2020 là 300.000đ x 30 ngày = 9.000.000đ (chín triệu đồng);

+ Tiền bồi thường thu nhập cho người chăm sóc trong thời gian điều trị: 250.000 x 30 = 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng);

+ Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm hại: (bằng 20 tháng lương tối thiểu) là 29.800.000đ (hai mươi chín triệu tám trăm nghìn đồng).

Cộng các khoản là: 88.153.088đ (tám mươi tám triệu một trăm năm ba không trăm tám tám đồng). Xác nhận bị cáo T đã tự nguyện bồi thường cho anh Dũng trong quá trình điều tra 7.000.000,đ (bảy triệu đồng) và tại phiên tòa 2.000.000,đ (hai triệu đồng). Do vậy Nguyễn Thành công còn phải bồi thường 88.153.088 – 7.000.000đ = 81.153.088đ – 2.000.000đ = 79.153.088 (bảy chín triệu một trăm năm ba nghìn không trăm tám tám đồng).

* Bị hại Hoàng Văn T và bị cáo Nguyễn Quyền T thỏa thuận: Nguyễn Quyền T bồi thường thiệt hại sức khỏe cho Hoàng Văn T với số tiền là 20.000.000,đ (hai mươi triệu đồng). Được trừ 2.000.000,đ (hai triệu đồng) số tiền bị cáo đã bồi thường tại tòa. Bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường 18.000.000đ (mười tám triệu Đồng). Đối với số tiền 2.000.000,đ (hai triệu đồng) bị cáo đã đưa cho anhT trong quá trình điều tra hai bên thỏa thuận không tính trong số tiền 20.000.000đ. Việc thỏa thuận của bị cáo và bị hại không trái đạo đức xã hội và phù hợp thực tế nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Căn cứ vào Điều 48 BLHS và các điều 584, 585, 590, Điều 600, Điều 601 Bộ luật dân sự.

Hội đồng xét xử thấy trong vụ án này bị cáo Nguyễn Quyền T là người trực tiếp gây ra tai nạn, tuy nhiên T là người lao động, làm công (người làm thuê cho Nguyễn Thành C) do vậy theo quy định của điều 600 và 601 BLDS thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ (Nguyễn Thành C) phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cho bị hại Chu Văn D và có quyền yêu cầu Nguyễn Quyền T hoàn trả số tiền mình phải bồi thường trong vụ án dân sự khác.

Ghi nhận sự thỏa thuận việc bồi thường giữa bị cáo T và bị hại Hoàng Văn T.

Đối vớị bị Hà Văn B đã được bị caó Nguyễn Quyền T bồi thường số tiền 2.000.000,đ (hai triệu đồng). Đến nay anhB không có yêu cầu đề nghị gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chủ xe ô tô BKS 22C – 057.37 Mùng Văn T và xe ô tô nhãn hiệu KIA màu xanh, BKS 16L – 6635 của Hà Văn B và xe BKS 22C – 017.25 của anh Nguyễn Thành công đều bị hư hỏng nhẹ sau vụ tai nạn giao thông. Tuy nhiên Mùng Văn T, Hà Văn B và Nguyễn Thành công quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không có yêu cầu đề nghị gì về bồi thường đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Việc thi hành án khoản tiền bồi thường được thực hiện theo Điều 357 của Bộ luật dân sự 2015.

[5]. Về vật chứng:

Căn cứ Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS năm 2015.

Về vật chứng của vụ án gồm:

Đối với xe ô tô nhãn hiệu TERACO, BKS 22C - 057.37; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT số 1765002; 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số 0143078; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 011224 do phòng CSGT công an tỉnh Tuyên Quang cấp ngày 21/3/2018 xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại những tài sản trên cho Mùng Văn T là đúng quy định.

Đối với xe ô tô nhãn hiệu KIA màu xanh, BKS 16L – 6635; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT số 2327938; 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự số 90236522; 01 (môt) cột tiêu hình nón màu cam xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại những tài sản trên cho Hà Văn B là đúng quy định.

Đối với các đồ vật, tài sản đã tạm giữ, gồm:

- 01 (Một) xe ô tô tải BKS 22C - 017.25 bị hư hỏng do tai nạn giao thông;

- 01 giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT số 1755703 (có giá trị đến ngày 20/10/2020);

- 01 giấy chứng nhận đăng kí xe ô tô số 004812 do phòng CSGT công an tỉnh Tuyên Quang cấp ngày 21/10/2013;

Cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho đến khi Nguyễn Thành công thanhT xong các khoản bồi thường cho bị hại Chu Văn D.

- 01 đăng ký xe ô tô số 033157 do phòng CSGT công an thành phố Hải Phòng cấp ngày 01/11/2007 cần trả lại cho Hà Văn B.

- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số DK20/0030352. Cần trả lại cho Nguyễn Thành C.

- 01 (Một) giấy phép lái xe số 190124191398 mang tên Nguyễn Quyền T. Cần trả lại cho Nguyễn Quyền T.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH16, ngày 30/12/2016.

Bị cáo Nguyễn Quyền T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Bị đơn dân sự, đồng thời là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thành công phải chịu án phí dân sự sơ thẩn nộp công quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quyền T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Áp dụng điểm công khoản 1, Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65/BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quyền T 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng. Giao bị cáo cho UBND xã Quảng Chu, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới`thì tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 56 của Bộ luật này.

Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS và các Điều 584, 585, 590 và Điều 600, Điều 601 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

* Buộc Bị đơn dân sự đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thành công bồi thường cho bị hại Chu Văn D số tiền 88.153.088đ (được trừ 7.000.000,đ bị cáo T đã tự nguyện bồi thường trong quá trình điều tra và 2.000.000đ bị cáo bồi thường tại tòa) Nguyễn Thành công còn phải bồi thường 88.153.088đ – 7.000.000đ - 2.000.000đ = 79.153.088đ (bảy chín triệu một trăm năm ba nghìn không trăm tám tám đồng).

* Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị hại Hoàng Văn T và bị cáo Nguyễn Quyền T: Bị cáo Nguyễn Quyền T bồi thường thiệt hại sức khỏe cho Hoàng Văn T 20.000.000,đ (hai mươi triệu đồng). Được trừ 2.000.000,đ (hai triệu đồng) số tiền bị cáo đã bồi thường tại tòa. Bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường 18.000.000đ (20.000.000đ – 2.000.000đ = 18.000.000đ mười tám triệu đồng).

Việc thi hành án khoản tiền bồi thường được thực hiện theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Nguyễn Thành công có quyền khởi kiện yêu cầu Nguyễn Quyền T hoàn trả số tiền mình phải bồi thường cho bị hại Chu Văn D trong vụ án dân sự khác.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 46/BLHS, và Điều 106/BLTTHS.

Trả lại cho Nguyễn Thành công 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số DK20/0030352.

Trả lại cho Nguyễn Quyền T - 01 (Một) giấy phép lái xe số 190124191398 mang tên Nguyễn Quyền T.

- Trả lại cho Hà Văn B 01 đăng ký xe ô tô số 033157 do phòng CSGT công an thành phố Hải Phòng cấp ngày 01/11/2007 .

Tạm giữ để đảm bảo thi hành án:

- 01 (Một) xe ô tô tải BKS 22C - 017.25 - 01 giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT số 1755703 (có giá trị đến ngày 20/10/2020);

- 01 giấy chứng nhận đăng kí xe ô tô số 004812 do phòng CSGT công an tỉnh Tuyên Quang cấp ngày 21/10/2013;

(Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Cơ quan CSĐT công an thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn và chi Cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn lập ngày 02/7/2021).

* Án phí: Áp dụng nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Quyền T phải chịu 200.000đ án phí hình sư sơ thẩm và 1.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Nguyễn Thành công phải chịu 4.057.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành bản án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, các bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị haị, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2021/HS-ST ngày 13/08/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ 

Số hiệu:60/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về