TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 60/2020/HS-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC
Trong ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:
Phạm Thanh T, Tên gọi khác: không; sinh năm 1994, tại Đồng Nai. Nơi đăng ký thường trú: 1749, tổ 9, ấp 4 B, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nơi cư trú: ấp 1, xã L, huyện N, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn B, sinh năm 1950 và Nguyễn Thị T, sinh năm 1952; chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại điều tra. Bị cáo “có mặt”.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Vi Văn N, sinh năm 1956; Địa chỉ: ấp B, xã X, huyện X, tỉnh Đ. “Vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 01/2020, Phạm Thanh T cập nhật vào phần mềm “Getit” trên điện thoại di động Iphone Plus 6S màu vàng gold của T nhìn thấy tài khoản “Ti Nguyen” rao bán xe mô tô hiệu Vario màu xám bạc, biển số 60B5.303.46. T sử dụng tài khoản Mesenger “T Phạm” liên lạc tài khoản “Ti Nguyen” thỏa thuận với người không rõ họ tên, địa chỉ mua xe trên với giá 25.000.000 đồng, người bán xe này hẹn T đến tiệm mua bán xe “Kim Tuấn” tại xã S, huyện Đ, tỉnh Đ để giao tiền nhận xe, nhưng sau đó thay đổi điểm giao nhận xe tại khu vực Siêu thị Lotte, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. T đến điểm hẹn giao số tiền 23.000.000 đồng cho 02 thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ và nhận xe Vario biển số 60B5-303.46, đồng thời người bán xe hẹn sau 01 tuần sẽ chuyển giao giấy chứng nhận đăng ký xe cho T và T thanh toán 2.000.000 đồng còn lại.
Do không nhận được giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 60B5-303.46 như đã thỏa thuận, ngày 04/2/2020 tại phòng trọ thuộc ấp 1, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, T sử dụng tài khoản Facebook “T Phạm” kết bạn với tài khoản “Hoang Phong” thấy tài khoản này giới thiệu làm biển số và giấy tờ xe. Sau đó T sử dụng tài khoản Messeger “T Phạm” liên hệ với tài khoản “Hoang Phong” đặt làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 60B5- 304.46 với giá 2.000.000 đồng. T sử dụng điện thoại di động chuyển khoản số tiền đặt cọc 500.000 đồng cho “Hoàng Phong” qua tài khoản 012410001925357 tên “PHAM THI TAN” tại Ngân hàng BIDV - Chi nhánh Hoàn Kiếm. Ngày 07/02/2020, T nhận được giấy chứng nhận đăng ký xe từ nhân viên giao hàng và thanh toán cho nhân viên số tiền 1.200.000 đồng, chuyển khoản tiếp số tiền 300.000 đồng vào tài khoản “PHẠMTHITAN”.
Ngày 09/02/2020, T có ý định bán lại xe mô tô Vario biển số 60B5-303-46 nên vào ứng dụng “Getit” đăng tin bán xe. Anh Huỳnh Văn Th, sinh năm 1994, thường trú ấp N, xã H, huyện Tr, tỉnh Đ thấy thông tin và hẹn gặp T tại trạm xe buýt gần cổng Công ty C thuộc ấp 1, xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu để xem xe. Anh Th cùng bạn là anh Phạm Thanh S đến điểm hẹn gặp T và đề nghị cho xem giấy tờ. Sau khi kiểm tra giấy đăng ký xe mô tô, nghi vấn T sử dụng giấy tờ giả nên anh Th yêu cầu Phạm Thanh T cùng đến Công an xã Thạnh Phú làm việc. Tại Công an xã Thạnh Phú, T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Tang vật tạm giữ:
+ Xe mô tô loại Vario màu bạc gắn biển số 60B5-303.46, số khung MH1KF411XKK646184, số máy KF41E1646872;
+ 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 019789 loại Vario biển số 60B5- 303.46 tên chủ xe Phạm Thanh T đăng ký ngày 15/6/2019;
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone Plus 6S màu vàng gold.
Tại Kết luận giám định số 373/KLGĐ-PC09 ngày 17/3/2020 của Giám định viên Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:
1. Bản in (phôi) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy trên tài liệu nêu ở phần mẫu cần giám định (ký hiệu A) là giả.
2. Chữ ký mang tên Ngô Văn Tin trên tài liệu nêu ở phần mẫu cần giám định (ký hiệu A) với chữ ký mang tên Ngô Văn T trên các tài liệu nêu ở phần mẫu so sánh (ký hiệu từ M2 đến M4) không phải do cùng một người ký ra.
3. Hình dấu tròn Công an huyện Xuân Lộc – Công an tỉnh Đồng Nai trên tài liệu nêu ở phần mẫu cần giám định (ký hiệu A) với hình dấu tròn Công an huyện Xuân Lộc- Công an tỉnh Đồng Nai trên tài liệu nêu ở phần mẫu so sánh (ký hiệu từ M2 đến M4) không phải do cùng một con dấu đóng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thanh T đã khai nhận T bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của các bị cáo đúng như nội dung được tóm tắt ở phần trên.
Bản cáo trạng số: 55/CT-VKS-HS ngày 29/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã truy tố bị cáo Phạm Thanh T về tội: “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo, đồng thời đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Thanh T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Xử phạt bị cáo Phạm Thanh T với mức án từ 06 tháng đến 08 tháng tù; Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 47, 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 chiếc xe mô tô loại Vario màu bạc gắn biển số 60B5-303.46, số khung MH1KF411XKK646184, số máy KF41E1646872 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone Plus màu vàng gold, số sim 0968.115.480; Tịch thu tiêu hủy 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 019789 của xe mô tô biển số 60B5-303.46, tên chủ sở hữu Phạm Thanh T.
Bị cáo đã thừa nhận T bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng và Luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận gì.
Lời nói sau cùng, bị cáo đã ăn năn hối hận về hành vi mà bị cáo đã gây ra, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]Về tố tụng hình sự:
Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Trong giai đoạn điều tra đã có lời khai. Việc vắng mặt tại phiên tòa hôm nay không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án [2]Về căn cứ kết tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có tại hồ sơ vụ án, xét có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 10 phút ngày 09/02/2020, tại ấp 1, xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, Phạm Thanh T biết giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 60B5-303.46, số khung 1646872, số máy 646184 là giả nhưng vẫn sử dụng để thực hiện đăng tin, giao dịch bán xe mô tô Vario biển số 60B5-303.46 cho anh Huỳnh Văn Th thì bị phát hiện xử lý.
Hành vi của bị cáo Phạm Thanh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3]Về tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về tài liệu. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo là người đã thành niên, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo nhận thức được việc sử dụng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô giả là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên, chứng tỏ hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và tội phạm đã hoàn thành. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian học tập, cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội sau này, đồng thời có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội [4]Về nhân thân: Bị cáo Phạm Thanh T là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
[5]Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Thanh T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[6]Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo mới phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[7]Về xử lý vật chứng:
+ Đối với 01 chiếc xe mô tô loại Vario màu bạc gắn biển số 60B5-303.46, số khung MH1KF411XKK646184, số máy KF41E1646872. Kết quả xác minh tại Công an tỉnh Đồng Nai không xác định được thông tin chủ sở hữu và biển số xe mô tô hiệu Vario, số khung MH1KF411 XKK646184, số máy KF41E 164 6872, đồng thời Công an tỉnh Đồng Nai xác định xe mô tô trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Kết quả xác minh biển số 60B5-303.46 đã được cấp cho xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Jupiter màu đen, số khung PB30DY019461, số máy 1PB3-019456 do ông Vi Văn N, sinh năm 1956, ngụ tại ấp B, xã X, huyện X, tỉnh Đ đang quản lý, sử dụng.
Do đó, cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe mô tô loại Vario màu bạc gắn biển số 60B5-303.46, số khung MH1KF411XKK646184, số máy KF41E1646872.
+ Đối với 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 019789 loại Vario biển số 60B5-303.46 tên chủ xe Phạm Thanh T đăng ký ngày 15/6/2019 là giả, không sử dụng được nên tịch thu và tiêu hủy.
+ Đối với chiếc 01 điện thoại di động hiệu Iphone Plus 6S màu vàng gold bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.
[8]Về án phí: Bị cáo bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[9]Về đề nghị của Viện kiểm sát: Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm xử lý đối với hành vi phạm tội của các bị cáo về tội danh; Điều khoản; Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Về mức hình phạt; Xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[10]Các vấn đề khác:
Đối với tài khoản số 012410001925357 tên “PHAM THI TAN” tại Ngân hàng BIDV-Chi nhánh Hoàn Kiếm. Kết quả xác minh tài khoản số 012410001925357 là của khách hàng Phạm Thị T, sinh năm 1986; Địa chỉ: Xã T, huyện C, tỉnh H. Xác minh tại công an Xã T, huyện C, tỉnh H cung cấp: Trên địa bàn xã Tân Trường không có người tên là Phạm Thị T, sinh năm 1986, ở Xã T, huyện C, tỉnh H.
Đối với tiệm mua bán xe “Kim Tuấn”. Kết quả xác minh chủ tiệm xe máy “Kim Tuấn” là của anh Bùi Minh T, sinh năm 1986 ngụ tại ấp 3, xã S, huyện Đ, tỉnh Đ. Anh Thiện trình bày anh không sử dụng phần mềm “Get it” để giao dịch mua bán xe mô tô, đồng thời không biết và không sử dụng tài khoản “Ti Nguyen” để giao dịch mua bán xe. Tiệm của anh chỉ giao dịch mua bán trực tiếp với khách hàng.
Đối với chủ thuê bao số điện thoại 0968.944.380 và tên các tài khoản “Ti Nguyên”, “Hoàng Phong” Cơ quan điều tra xác minh nhưng chưa có kết quả.
Đối với hành vi làm giả tài liệu của Phạm Thanh T xảy ra trên địa bàn huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu đã chuyển giao thông tin tội phạm cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch điều tra, xử lý theo thẩm quyền.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Điều 106, Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;
- Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thanh T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Thanh T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Vario màu bạc gắn biển số 60B5-303.46, số khung MH 1KF411XKK646184, số máy KF41E1646872 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone Plus màu vàng gold.
- Tịch thu và tiêu hủy 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 019789 của xe mô tô biển số 60B5-303.46, tên chủ sở hữu Phạm Thanh T đăng ký ngày 15/6/2019.
(Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu) Về án phí: Bị cáo Phạm Thanh T phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn trên tính từ ngày bản án được niêm yết, tống đạt hợp lệ theo luật định.
Bản án 60/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức
Số hiệu: | 60/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về