Bản án 60/2020/HS-ST ngày 21/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 60/2020/HS-ST NGÀY21/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, Tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 59/2020/HSST ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2020/QĐXXST-HS ngày 09/10/2020 đối với bị cáo :

Họ và tên: Nguyễn Xuân L, sinh năm 1981:

Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Khu 6, thị trấn R, huyện N, tỉnh Nam Đ ịnh; Nghề nghiệp : Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo : không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L1 và bà Trịnh Thị T; có vợ là Nguyễn Thị Thu L2 và có 01 con:

Tiền án: Bản án số 64/HSST ngày 23/11/2018 Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

Tiền sự: không.

Lịch sử bản thân:

Bản án số 41/HSST ngày 28/8/2014 của TAND huyện N, tỉnh Nam Định xử phạt 07 tháng tù về tộ i trộm cắp tài sản:

Bản án số 17/HSST ngày 06/5/2016 của TAND huyện Đ, tỉnh Đăk Nông xử phạt 12 tháng tù về tộ i trộm cắp tài sản:

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/6/2020, chuyển tạm giam ngày 29/6/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (có mặt ).

*Người làm chứng: anh Dương Văn H và anh Đỗ Văn C (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên sáng ngày 28/6/2020, Nguyễn Xuân L thuê xe ôm của một người đàn ông không quen biết đi từ nhà sang khu vực huyện K, tỉnh Ninh Bình tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến khu vực nghĩa địa thuộc xóm 1, xã H bị cáo xuống xe và gặp người đàn ông không quen biết, hỏi và mua được của người này 02 gói ma túy với giá 200.000đ rồi cầm ở tay phải đi bộ tìm xe đi nhờ về nhà. Đến khoảng 6 giờ 50 phút cùng ngày khi về đến đoạn đường bê tông liên xóm thuộc xóm 9, xã H, thấy vắng người, bị cáo dừng lại định mở các gói ma túy ra kiểm tra thì bị tổ công tác Công an huyện K kiểm tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 02 gói nhỏ nêu trên, bị cáo khai nhận đó là các gói hê rô in bị cáo vừa mua để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra 02 gói nhỏ thu giữ của bị cáo được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng, cân xác định trọng lượng các gói có khố i lượng lần lượt là là 0,15 gam ký hiệu M1 và 0,11 gam ký hiệu M2, gửi toàn bộ đi giám định.

Bản kết luận giám định số 179/KLGĐ-PC09-MT ngày 29/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi tới giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1449gam; M2 có khối lượng 0,1136 gam. Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng của hai gói M1,M2 là 0,2585 gam đều là ma túy, loại hê rô in.

Bản cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 30/9/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Nguyễn Xuân L về tộ i “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng nêu trên và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân L phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Đ iều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân L từ 21 đến 24 tháng tù.

Áp dụng các quy định của pháp luật để xử lý vật chứng đã thu giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Xuân L hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo khai nhận bản thân là người sử dụng ma tuý từ cuối năm 2016 bằng hình thức chích hê rô in. Sáng ngày 28/6/2020 sẵn có tiền trong người và lại có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo bắt xe ôm của người không quen biết từ nhà đi sang huyện K tìm mua ma túy để sử dụng, khi tới khu vực nghĩa trang xã H bị cáo xuống xe đ i lang thang tìm mua ma túy. Tại đây bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 60 tuổi, đoán là người nghiện ma túy nên đã hỏi và mua được của người đó 02 gói hêrôin với giá 200.000đ, sau khi mua được hê rô in bị cáo cầm ở tay phải tiếp tục đi bộ tìm xe đi nhờ về nhà, khi đến khu vực đường dong thuộc xóm 9, xã H, thấy vắng người, bị cáo định mở các gói hê rô in ra xem được nhiều hay ít thì bị công an kiểm tra phát hiện, thu giữ 02 gói hê rô in bị cáo vừa mua và lập biên bản phạm tội quả tang đối với bị cáo.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, b iên bản cân xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, kết luận giám định các gói bột thu giữ của bị cáo.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận với hành vi cất giấu trong ngư ời 0,2585gam Hêrôin nhằm mục đích sử dụng, bị cáo Nguyễn Xuân L đã phạm tộ i “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất ma túy vì vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo trước pháp luật, buộc bị cáo phải cách ly xã hộ i một thời gian tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện mới đủ điều kiện để cải tạo đối với bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng : bị cáo đang có tiền án chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội, đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS; Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo khai báo thành khẩn, tự giác giao nộp các gói hê rô in cho cơ quan công an và khai nhận hành vi phạm tộ i của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 BLHS năm 2015.

[4] Về nguồn gốc Hêrôin: Bị cáo khai mua của một người đàn ông khoảng 60 tuổi ở khu vực nghĩa địa thuộc xóm 1, xã H, huyện K, bị cáo không quen biết người đó, có gặp lại cũng không nhận dạng được vì vậy cơ quan điều tra Công an huyện K không đủ cơ sở để điều tra.

[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Vật chứng hiện còn gồm 01 phong bì ghi số 179/KLGĐ-PC09-MT bên trong có vật chứng còn lại sau giám định cùng vỏ niêm phong; 01 phong bì niêm phong, bên trong có vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 02 vỏ gói các gói nhỏ thu giữ khi bắt quả tang bị cáo, đây là vật cấm lưu hành và là vật không còn giá trị sử dụng vì vậy cần tịch thu cho tiêu hủy. Đối với thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Xuân L, đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội vì vậy cần trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện hành vi tố tụng hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.

Vì lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân L 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 28/6/2020.

+ Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Xuân L 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Xuân L do cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hộ i cấp ngày 20/9/2019:

- Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì ghi số 179/KLGĐ-PC09-MT trên giáp lai có chữ ký của đại diện bên giao, bên nhận và đóng dấu của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình, bên trong có vật chứng còn lại sau giám định cùng vỏ bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có vỏ phong bì niêm phong ban đầu và vỏ ngoài các gói nhỏ đã thu giữ của bị cáo.

(Chi tiết vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 01/10/2020 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện K với Chi cục THADS huyện K)

+ Căn cứ Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, buộc bị cáo Nguyễn Xuân L phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người có quyền, nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2020/HS-ST ngày 21/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về