Bản án 60/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 60/2020/HS-ST NGÀY 17/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2020/TLST-HS ngày 23/10/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2020/QĐXXST-HS ngày 18/11/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 40/2020/HSST-QĐ ngày 02/12/2020 đối với bị cáo:

Nguyn Duy T – sinh năm 1996 tại Ninh Hòa, Khánh Hòa.

Nơi cư trú: Thôn T, xã S, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn D, sinh năm 1970 và bà: Nguyễn Thị M, sinh năm 1971.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2020, thay thế biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh từ ngày 01/10/2020, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Trọng H, sinh năm 1992 Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa, có mặt.

- Người làm chứng: Bà Hoàng Thị N, sinh năm 1975 Nơi cư trú: Tổ dân phố A, phường H, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 30/6/2020, Nguyễn Duy T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 79N1 – 0125 đến quán karaoke Tigon thuộc tổ dân phố A, phường H, thị xã N thì gặp tổ tuần tra Công an thị xã N yêu cầu kiểm tra hành chính đã phát hiện trên người T có 01 túi nhựa chứa 10 viên nén màu cam, 01 túi nhựa chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy nên tiến hành lập biên bản bắt quả tang. Qua điều tra xác định Nguyễn Duy T mua số ma túy trên với giá 7.000.000 đồng tại thành phố Nha Trang của người không quen biết để cất sử dụng cá nhân thì bị phát hiện. Qua khám xét nơi ở của T tại tổ dân phố A, phường H, còn phát hiện 01 viên nén màu vàng.

Theo bản kết luận giám định số 424/QĐTP/2020 ngày 03/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận:

- 10 viên nén màu cam (ký hiệu M1) là ma túy loại MDMA khối lượng 3,5060g;

- 01 túi nhựa chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) là ma túy Ketamine khối lượng 1,2352g.

- 01 viên nén màu vàng (ký hiệu M3) là ma túy loại MDMA khối lượng 0,2541g; Hoàn lại mẫu vật ký hiệu M1, M2 còn lại sau giám định có khối lượng lần lượt là 2,7067g và 1,0204g. Không hoàn lại mẫu vật ký hiệu M3 còn lại sau giám định.

Vật chứng vụ án:

- Thu giữ của Nguyễn Duy T 2.000.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen; 01 xe mô tô loại Suzuki màu vàng số máy E110-TH149836, số khung B…12B- TH204786 có biển kiểm soát 79N1 – 0125.

- 01 phong bì ký hiệu M1 và 01 phong bì ký hiệu M2 hoàn lại sau giám định có chữ ký của giám định viên và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa.

- Tại bản cáo trạng số 58/CT-VKS-HS ngày 20/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c, g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N đề nghị:

+ Áp dụng điểm c, g khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T từ 12 – 15 tháng tù.

+ Về vật chứng vụ án:

Đối với lượng ma túy do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã N thu giữ còn lại sau giám định có ký hiệu M1 là 2,7067g và M2 là 1,0204g thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với 2.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen là của bị cáo nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe mô tô loại Suzuki màu vàng số máy E110-TH149836, số khung B…12B-TH204786 có biển kiểm soát 79N1 – 0125, hiện chưa xác định được chủ sở hữu nên đề nghị chuyển cho cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh nguồn gốc và xử lý theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo: Không tranh luận.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Không tranh luận.

- Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn với hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, người làm chứng bà Hoàng Thị N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy họ đã có lời khai trong hồ sơ và sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, kết luận hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[3]. Về tội danh và điều luật áp dụng:

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 30/6/2020 tại tổ dân phố A, phường H, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa, Nguyễn Duy T đã có hành vi tàng trữ trái phép 02 chất ma túy MDMA và KETAMINE với tổng khối lượng qua giám định là 4,9953g. Hành vi của bị cáo Nguyễn Duy T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã N truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là có căn cứ.

[4]. Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, góp phần gia tăng các tệ nạn, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy nhưng vẫn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không [6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có thời gian tham gia Công an nhân dân thuộc Trung đoàn Cảnh sát cơ động Tây Nguyên, đồng thời ông nội của bị cáo là người có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa đổi.

[7]. Về vật chứng vụ án:

- Đối với lượng ma túy do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã N thu giữ còn lại sau giám định có ký hiệu M1 là 2,7067g và M2 là 1,0204g thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 2.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen là của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 xe mô tô loại Suzuki màu vàng số máy E110-TH149836, số khung B…12B-TH204786 có biển kiểm soát 79N1 – 0125, hiện chưa xác định được chủ sở hữu nên chuyển cho cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh nguồn gốc và xử lý theo quy định của pháp luật.

Tất cả vật chứng được thể hiện trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã N với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã N.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c, g khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 293, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2020 đến ngày 01/10/2020. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định có ký hiệu M1, M2 lần lượt là 2,7067g và 1,0204g.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Duy T 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen; 2.000.000 đồng.

- Chuyển cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã N tiếp tục xác minh nguồn gốc xe mô tô biển số 79N1 – 0125 để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tất cả vật chứng được thể hiện trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã N với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã N.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Duy T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về