Bản án 60/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BN ÁN 60/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã KM, huyện Đ, Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Luân Văn H, tên gọi khác: Không; sinh ngày 18/10/1993; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm HH, xã LH, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa:

9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Luân Văn Q, sinh năm 1965, con bà: Đỗ Thị T, sinh năm 1966; vợ, con chưa có. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án: Tại Bản án số 41/HS-ST ngày 12/6/2018 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 25/7/2019, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/7/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ. (Có mặt tại phiên tòa).

- Người chứng kiến:

Ông Nguyễn Minh S, sinh năm 1974 – Vắng mặt.

Trú tại: Xóm AR1, xã KM, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Ông Nguyễn Thanh B, sinh năm 1976 – Vắng mặt. Trú tại: Xóm TP, xã KM, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Anh Ngô Văn A, sinh năm 2001 – Vắng mặt.

Trú tại: Xóm GP, xã TC, TP TN, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 28/7/2020, tổ công tác Công an huyện Đ đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực xóm ĐK, xã KM, huyện Đ phát hiện một người đàn ông đang điều khiển xe mô tô có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiếp cận và kiểm tra thì người này đã lấy từ trong túi quần phía trước bên trái mình đang mặc một vật cho vào miệng rồi dừng xe lại, chấp hành và tự khai nhận tên là Luân Văn H (sinh năm 1993, trú tại: Xóm HH, xã LH, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên). Tiến hành kiểm tra đối với H, phát hiện và thu giữ tại túi quần phía trước bên trái H đang mặc 01 gói giấy nilon màu xanh, bên trong có giấy bạc màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng. H khai nhận số chất bột màu trắng nói trên là Heroine của H. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H và niêm phong vật chứng theo quy định (được ký hiệu là QT). Ngoài ra, còn thu giữ của H một chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius, mang BKS: 20D1 – 024.39.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã khám xét khẩn cấp chỗ ở của Luân Văn H. Kết quả: không phát hiện, thu giữ gì.

Sau khi lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H, H khai vừa nuốt vào bụng 01 gói heroine nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã đưa H đến Bệnh viện A Thái Nguyên, sau đó đưa đến Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Đến 01 giờ, ngày 29/7/2020, tại khoa Cấp cứu, bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, tiến hành các biện pháp y học, cho H đi đại tiện ra 01 gói bằng nilon màu xanh, bên trong là lớp giấy bạc mầu vàng, chưa chất bột mầu trắng nghi là heroine (được ký hiệu là KX).

Tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của H trong phong bì ký hiệu là QT là 0,126 gam, trong phong bì ký hiệu KX là 0,210 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định – ký hiệu A1 – A2.

Tại bản kết luận giám định số 993/KL - KTHS ngày 05/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại heroine, có khối lượng là 0,126 gam; Chất bột màu trắng trong mẫu A2 gửi giám định là chất ma túy, loại heroine, có khối lượng là 0,210 gam. Tổng cộng là 0,336 gam.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Luân Văn H khai nhận: Bản thân H là đối tượng nghiện ma túy (heroine), nên khoảng 07 giờ ngày 28/7/2020, H một mình điều khiển xe môtô nhãn hiệu YAMAHA Sirius, BKS: 20D1 – 024.39 đi từ nhà đến khu vực cầu GBthuộc phường ĐB, thành phố TN để tìm mua heroine về sử dụng cho bản thân. Đến nơi, H đã gặp và hỏi mua của một người đàn ông lạ mặt (H không rõ tên tuổi, địa chỉ) được 02 gói Heroine, với giá 200.000đ. Sau khi mua xong, H điều khiển xe quay về đến xóm ĐK, xã KM thì bị tổ công tác Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng vụ án gồm: 03 (ba) phong bì niêm phong ký hiệu: A1; A2; LK; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA – Sirius, BKS: D1 – 024.39.

Hiện số vật chứng trên đang được lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ chờ xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo đề nghị được xin lại chiếc xe mô tô vì chiếc xe này là bố mẹ mua cho bị cáo để sử dụng mục đích sinh hoạt chung trong gia đình.

Tại bản cáo trạng số 56/CT-VKSĐH, ngày 14/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Luân Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Luân Văn H phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: - Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bÞ c¸o Luân Văn H tõ 18 đến 24 tháng tï. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 03 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, A2 và LK.

+ Trả cho bị cáo 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu Yamaha - Sirius, BKS:

D1 – 024.39 để quản lý, sử dụng.

- Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.

Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Vào hồi 9 giờ ngày 28/7/2020, tại khu vực xóm ĐK, xã KM, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, tổ công tác Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã bắt quả tang Luân Văn H đang có hành vi tàng trữ 0,336 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” ...

c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, đã có 01 tiền án về tội “Mua bán trái pháp chất ma túy”.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại Bản án số 41/HS-ST ngày 12/6/2018 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, bị cáo bị xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái pháp chất ma túy”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, do đó bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành công dân tốt.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, sống phụ thuộc gia đình nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[3]. Vật chứng của vụ án:

- Đối với 03 phong bì niêm phong kí hiệu A1, A2 và LK (bên trong có chứa vỏ bì và số Heroine còn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu Yamaha - Sirius, BKS: D1 – 024.39; số máy: 5C64-850867; số khung: RLCS5C640CY850863. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai đăng ký xe mang tên bị cáo, là bố mẹ mua cho bị cáo, mục đích để phục vụ sinh hoạt gia đình nên bị cáo đề nghị được xin lại. Xét thấy, mặc dù bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô đi mua ma túy nhưng không phải mua vì mục đích về bán kiếm lời mà chỉ nhằm sử dụng cho bản thân nên có căn cứ chấp nhận đề nghị của bị cáo, trả lại chiếc xe mô tô cho bị cáo quản lý, sử dụng.

[4] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[5]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt đối với bị cáo và các nội dung khác là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo khai đã mua heroine của một người đàn ông không quen biết, không rõ lai lịch, địa chỉ ở khu vực cầu GBthuộc phường ĐB, thành phố Thái Nguyên, do không xác định được lai lịch địa chỉ của người đàn ông trên nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ không có đủ cơ sở để điều tra, làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Luân Văn H phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Luân Văn H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/7/2020. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 03 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, A2 và LK.

+ Trả cho bị cáo 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha - Sirius, BKS: D1 – 024.39; số máy: 5C64-850867; số khung: RLCS5C640CY850863.

(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/11/2020 giữa cơ quan Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Luân Văn H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về