Bản án 60/2020/HS-ST ngày 01/12/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THUỶ – TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 60/2020/HS-ST NGÀY 01/12/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 01 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2020/TLST-HS ngày 07/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2020/QĐXXST-HS ngày 17/11/2020, đối với bị cáo:

Đặng Xuân C, sinh ngày: 11/9/1977; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ dân phố 3, thị trấn N, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Văn T(đã chết) và bà: Lê Thị S(đã chết); vợ: Phạm Thị H, sinh năm 1979; con: Có 2 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Bà Phạm Thị L, sinh năm 1958(chết) - Đại diện hợp pháp của người bị hại Phạm Thị L: Chị Phạm Thị T(con gái bà L), sinh năm 1988, địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

- Người làm chứng:

+Anh Đặng Thành T, sinh năm 1969, địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn N, huyện B, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

+ Anh Lưu Văn H, sinh năm 1971, địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn N, huyện B, tỉnh Quảng Bình (vừa là người làm chứng vừa là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan), có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/3/2020, Đặng Xuân C có giấy phép lái xe hợp lệ, điều khiển xe ô tô biển kiểm soát(BKS) 73B- 007.05 của anh Lưu Văn H chạy theo hướng Nam- Bắc. Khi đến Km 686+290 Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình, do đi sai phần đường và không giữ khoảng cách an toàn với xe chạy liền phía trước cùng chiều, C đã để xe ô tô do mình điều khiển va chạm với xe mô tô BKS 73H1- 008.80 do bà Phạm Thị L sinh năm 1958 điều khiển chạy phía trước cùng chiều. Hậu quả, bà Phạm Thị L được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Trung ương H thì tử vong. Xe ô tô và xe mô tô bị hư hỏng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 26/3/2020, Hội đồng định giá tài sản huyện L kết luận: Xe ô tô BKS 73B - 007.05 bị hư hỏng có giá trị thiệt hại 500.000 đồng, xe mô tô BKS 73H1- 008.80 bị hư hỏng có giá trị thiệt hại 480.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 57/TT ngày 14/5/2020 của Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y tỉnh Quảng Bình kết luận: Nạn nhân Phạm Thị L chết do sốc đa chấn thương, chấn thương sọ não, chấn thương hàm mặt, chấn thương ngực, vết thương phức tạp tay trái.

Vật chứng vụ án:

Ngày 15/3/2020, Cơ quan Công an huyện Lệ Thủy tạm giữ một xe ô tô BKS 73B- 007.05 cùng một giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, một giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và giấy phép lái xe mang tên Đặng Xuân C; một xe mô tô BKS 73H1- 008.80(tất cả có đặc điểm như miêu tả tại biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu tại bút lục 62 đến 69). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy đã trả lại các tài sản cho chủ sở hữu và đại diện hợp pháp của người bị hại. Riêng giấy phép lái xe mang tên Đặng Xuân C tiếp tục tạm giữ và chuyển theo hồ sơ vụ án.

Về phần dân sự: Bị cáo Đặng Xuân C đã tự nguyện bồi thường số tiền 170.000.000 đồng cho gia đình người bị hại bà Phạm Thị L. Ông Phạm Bá D và chị Phạm Thị T đại diện gia đình người bị hại đã nhận số tiền 170.000.000 đồng vào ngày 30/4/2020 và cam đoan chấm dứt phần dân sự.

Tại bản cáo trạng số: 55/CT-VKSLT ngày 06/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thuỷ truy tố bị cáo Đặng Xuân C về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Qua tranh luận tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, các điểm b, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Đặng Xuân C từ 12 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng; vật chứng vụ án, đề nghị trả lại cho bị cáo giấy phép lái xe mang tên Đặng Xuân C theo điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; về dân sự : Không ai có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Lệ Thủy, Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng không ai có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Chứng cứ xác định có tội và điều luật áp dụng:

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Xuân C khai nhận tất cả hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra, bị cáo khai: Nguyên nhân xảy ra tai nạn là do bị cáo điều khiển xe ô tô chở khách đi trên đường Quốc lộ 1A theo hướng Nam – Bắc, khi đến đoạn đường gần cầu T, xã H thì thấy trên cầu có công trường đang thi công, có biển báo đi chậm, làn đường bên phải của cầu được lập hàng rào chắn nên bị cáo điều khiển xe sang làn đường bên trái để đi qua cầu, khi qua hết cầu bị cáo vẫn điều khiển xe đi trên phần đường bên trái, vì làn đường bên phải có một người phụ nữ đang điều khiển xe mô tô đi cùng chiều, khi khoảng cách giữa xe mô tô do người phụ nữ điều khiển và xe ô tô do bị cáo điều khiển cách nhau khoảng 05 mét thì người phụ nữ bất ngờ tạt ngang sang làn đường bên trái. Do khoảng cách quá gần nên bị cáo đã giảm tốc độ và phanh nhưng không kịp đã để xe ô tô do bị cáo điều khiển va chạm với xe mô tô của người phụ nữ đó ở phía trước bên phải của xe ô tô, bị cáo dừng xe lại thì thấy người phụ nữ đó đã bị thương nên bảo phụ xe (anh Lưu Văn H) gọi xe đưa người phụ nữ đó đi cấp cứu. Sau đó nghe tin người phụ nữ đã tử vong, bị cáo đã đến phúng viếng và động viên, thăm hỏi gia đình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và kết luận giám định của Trung tâm Giám định Y khoa - Pháp y tỉnh Quảng Bình cũng như các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra đã thu thập đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/3/2020, bị cáo Đặng Xuân C điều khiển xe ô tô đi trên đường Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn T, xã H, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Đặng Xuân Chiến điều khiển xe ô tô đi không đúng phần đường quy định và không giữ khoảng cách an toàn với xe chạy liền phía trước cùng chiều gây tai nạn với xe mô tô BKS 73H1- 008.80 do bà Phạm Thị L điều khiển, hậu quả làm cho bà Phạm Thị L tử vong trong khi đang đi cấp cứu tại Bệnh viện Trung ương H.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của người khác, gây mất trật tự an toàn công cộng. Bị cáo hiểu rõ điều đó song do chủ quan, coi thường pháp luật, không chấp hành quy định của Luật giao thông đường bộ, đi không đúng phần đường, trong khi đó, đoạn đường nơi xảy ra tại nạn là đoạn đường thẳng, tầm nhìn không bị hạn chế, mặt đường được rãi nhựa phẳng. Do bị cáo phán đoán không chính xác, xử lý kém nên hậu quả làm cho bà Phạm Thị L bị tử vong, thiệt hại tài sản của người bị hại 480.000 đồng. Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình nghiên cứu toàn bộ nội dung vụ án cũng như xét hỏi công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy, sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại nên khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, đồng thời xem xét về nhân thân của người phạm tội: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cứ trú rõ ràng và có khả năng tự cải tạo tốt nên chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cần giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú để giám sát, giáo dục là vừa phải, tạo điều kiện cho bị cáo tu dưỡng và rèn luyện bản thân trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội là phù hợp với Điều 65 của Bộ luật Hình sự và cũng phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[5].Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy đã trả lại những vật chứng đã tạm giữ cho chủ sở hữu và đại diện hợp pháp của người bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét. Riêng giấy phép lái xe mang tên Đặng Xuân C chuyển theo hồ sơ vụ án cần trả lại cho bị cáo theo điểm b khoản 3 Điền 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6].Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại về mai táng phí, tổn thất tinh thần và tài sản cho gia đình người bị hại Phạm Thị L số tiền 170.000.000 đồng. Tại phiên tòa, chị Phạm Thị T là đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày, gia đình đã nhận đủ 170.000.000 đồng, nay không yêu cầu gì thêm; anh Lưu Văn H không có yêu cầu gì, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

[8].Quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 và khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Đặng Xuân C phạm "Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ".

Xử phạt bị cáo Đặng Xuân C 12(mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24(hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (01/12/2020).

Giao Đặng Xuân C cho UBND thị trấn N, huyện B, tỉnh Quảng Bình để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trả lại cho bị cáo Đặng Xuân C một giấy phép lái xe số 440119002502, hạng E, mang tên Đặng Xuân C do Sở GTVT tỉnh Quảng Bình cấp lại ngày 22/5/2020, có giá trị đến ngày 22/5/2025.

Bị cáo Đặng Xuân C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng để nộp vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (01/12/2020), để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2020/HS-ST ngày 01/12/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:60/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:01/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về