Bản án 60/2020/HNGĐ-ST ngày 24/08/2020 về ly hôn giữa chị O, anh M

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 60/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ O, ANH M

Ngày 24 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 263/2020/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp “ Ly hôn, con chung”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2020/QĐXX-ST ngày 04 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bàn Thị O sinh năm 1988 (vắng mặt)

Bị đơn: Anh Bàn Văn M sinh năm 1979 (vắng mặt) Đều địa chỉ: Thôn Đồng Vành 1, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

(Chị O, anh M đều có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 01/6/2020, trong các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, chị Bàn Thị O là nguyên đơn trình bày: Chị kết hôn với anh M tháng 9/2006, trước khi kết hôn hai bên được tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Cưới xong chị và anh M về chung sống tại thôn Đồng Vành 1, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam. Vợ chồng sống hòa thuận đến tháng 7/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống và trong phát triển kinh tế gia đình dẫn đến vợ chồng không quan tâm đến nhau, không bảo được nhau, việc của ai người đó làm, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Tháng 05/2019 chị đã về gia đình mẹ đẻ ở cho đến nay, vợ chồng cũng chấm dứt mọi quan hệ tình cảm từ đó. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh M.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Bàn Thị H sinh ngày 22/12/2005 và Bàn Thị Tường V sinh ngày 11/12/2015, hiện đang ở với anh M, các cháu phát triển bình thường, nay ly hôn chị yêu cầu trực tiếp nuôi cháu V, không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con. Còn cháu H để anh M trực tiếp nuôi.

Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do công việc bận chị xin được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

Bị đơn anh Bàn Văn M trình bày trong biên bản lấy lời khai: Anh và chị O kết hôn năm 2006 trên cơ sở tự nguyện hợp pháp. Sau khi cưới xong chị O về chung sống với anh. Vợ chồng sống hòa thuận đến tháng 05/2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống và phát triển kinh tế gia đình, dẫn đến vợ chồng không hiểu nhau, chị O đã về gia đình mẹ đẻ ở, không sống chung với anh nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị O xin ly hôn, anh cũng nhất trí.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Bàn Thị Huệ sinh ngày 22/12/2005 và Bàn Thị Tường Vy sinh ngày 11/12/2015, hiện đang ở với anh, các cháu phát triển bình thường, nay ly hôn anh yêu cầu trực tiếp nuôi cả hai con chung, không yêu cầu chị O cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do công việc bận anh xin được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; Điều 228, Điều 238; Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Bàn Thị O được ly hôn anh Bàn Văn M.

Về nuôi con chung: Giao chị Bàn Thị O trực tiếp nuôi Bàn Thị Tường V sinh ngày 11/12/2015, anh Bàn Văn M trực tiếp nuôi Bàn Thị H sinh ngày 22/12/2005. Về cấp dưỡng nuôi con không xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn chị O, anh M được quyền thăm nom con chung, không bên nào được cản trở bên kia thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị O phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của KSV, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự. Chị O, anh M đều có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa, nên HĐXX căn cứ vào Điều 228 BLTTDS đưa vụ án ra xét xử.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Bàn Thị O kết hôn với anh Bàn Văn M ngày 22/9/2006 trên cơ sở tự nguyện hợp pháp, cưới xong chị O về chung sống với anh M ở thôn Đồng Vành 1, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam. Vợ chồng sống hòa thuận đến tháng 5/2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong phát triển kinh tế gia đình dẫn đến vợ chồng không quan tâm gì đến nhau, việc của ai người đó làm, vợ chồng sống không có hạnh phúc. Chị O đã về gia đình mẹ đẻ ở từ khi xảy ra mâu thuẫn. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị O đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh M, anh M cũng nhất trí, xét thấy tình cảm giữa chị O và anh M đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, hạnh phúc vợ chồng không xây dựng được nên cần cho chị O được ly hôn anh M là phù hợp tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị O và anh M có 02 con chung là Bàn Thị H, sinh ngày 22/12/2005 và Bàn Thị Tường V, sinh ngày 11/12/2015. Nay ly hôn chị O yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu V, anh M yêu cầu trực tiếp nuôi cả 2 cháu. Xét thấy yêu cầu của các đương sự là chính đáng, hiện chị O có công ăn việc làm ổn định, anh M làm nghề tự do nhưng cũng có thu nhập ổn định, để các cháu phát triển tốt nay cần giao cho chị O nuôi cháu Bàn Thị Tường V, anh M trực tiếp nuôi cháu Bàn Thị Huệ cũng là phù hợp với nguyện vọng của cháu H. Xét như vậy là phù hợp với Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình.

Chị O và anh M không yêu cầu xem xét việc cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Cả chị O và anh M không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị O xin chịu cả tiền án phí ly hôn.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; Điều 228, Điều 238; Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Bàn Thị O được ly hôn anh Bàn Văn M.

2.Về nuôi con chung: Giao chị Bàn Thị O trực tiếp nuôi Bàn Thị Tường V, sinh ngày 11/12/2015, anh Bàn Văn M trực tiếp nuôi Bàn Thị H, sinh ngày 22/12/2005. Về cấp dưỡng nuôi con không xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn chị O, anh M được quyền thăm nom con chung, không bên nào được cản trở bên kia thực hiện quyền này.

3.Về án phí: Chị O phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ chị đã nộp tạm ứng án phí ly hôn theo biên lai thu số AA/2017/0004811 ngày 09/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Nam. Chị O đã nộp đủ.

Báo cho đương sự vắng mặt tại phiên tòa biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2020/HNGĐ-ST ngày 24/08/2020 về ly hôn giữa chị O, anh M

Số hiệu:60/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về