Bản án 60/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 60/2019/HSST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xét xử công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 58/2019/HSST ngày 12 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/HSST ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Q (tên gọi khác: không). Sinh ngày 10 tháng 11 năm 1990. Nơi sinh: Huyện B, tỉnh Lào Cai; Giới tính: Nam. Nơi đăng ký hộ khẩu và nơi ở: Thôn Đ, xã Q, huyện B, tỉnh Lào Cai. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 7/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Tiền án: Không; Tiền sự: Bị cáo có 02 tiền sự:

+ Quyết định số 28/2016/QĐ-TA ngày 23/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai đã Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Văn Q trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày 20/5/2016 đến ngày 18/4/2017.

+ Quyết định số 59/2017/QĐ-TA ngày 27/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai đã Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Văn Q trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày 28/4/2017 đến ngày 29/4/2018.

Con ông: Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1964 và bà: Nguyễn Thị M, sinh năm 1973. Bị cáo chưa có vợ, con. Nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, có 02 tiền sự. Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 11/10/2019, tạm giam ngày 20/10/2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

Bị hại: Bà Nguyễn Thị M;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 10/10/2019, Nguyễn Văn Q đang ngồi xem ti vi ở nhà tại thôn Đồng Quang, xã Quang Kim, huyện Bát Xát thì bà Nguyễn Thị M (là mẹ đẻ của Nguyễn Văn Q) đi ra vườn hái rau. Nguyễn Văn Q nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của bà Nguyễn Thị M để bán lấy tiền tiêu xài. Nguyễn Văn Q mở cửa đi vào phòng ngủ của bà Nguyễn Thị M thấy phía cuối giường ngủ có một chiếc túi vải kẻ ca rô đựng quần áo. Nguyễn Văn Q mở túi và lục soát thì phát hiện trong túi áo khoác màu đỏ có một chiếc tất màu đen, đầu buộc dây nịt màu vàng, bên trong có một chiếc vòng, Nguyễn Văn Q biết là chiếc vòng vàng mà bà Nguyễn Thị M hay đeo. Nguyễn Văn Q cất chiếc tất cùng chiếc vòng vào túi quần đang mặc rồi đi đến khu vực bờ suối mở ra kiểm tra và vứt chiếc tất xuống suối rồi đi đến Công ty trách nhiệm hữu hạn vàng bạc đá quý Quang Trung chi nhánh Lào Cai ở phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai để bán. Nguyễn Văn Q gặp chị Vũ Thu Hằng là nhân viên của công ty và bán chiếc vòng vàng được số tiền 20.650.000 (hai mươi triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng). Sau đó Nguyễn Văn Q đi xe ôm lên khu vực phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai vào một quán điện tử chơi trò chơi bắn cá hết số tiền 20.550.000 (hai mươi triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng), còn lại số tiền 100.000 (một trăm nghìn đồng). Đến sáng ngày 11/10/2019, Nguyễn Văn Q bị triệu tập lên Ủy ban nhân dân xã Quang Kim để làm việc và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vật chứng thu giữ: Thu giữ của Nguyễn Văn Q số tiền 100.000 (một trăm nghìn đồng).

Ngày 14/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bát Xát đã ra yêu cầu định giá tài sản số 29/CSĐT đối với tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án.

Kết luận định giá tài sản số 19/KL.HDĐG ngày 18/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bát Xát kết luận: 01 (một) vòng tay bằng kim loại, màu vàng, dày khoảng 03 mm, đường kính khoảng 06 cm, có trọng lượng 05 chỉ, loại vàng 9999, có giá trị 20.500.000 (hai mươi triệu năm trăm nghìn đồng).

Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn vàng bạc đá quý Quang Trung chi nhánh Lào Cai đã mua chiếc vòng bằng vàng của Nguyễn Văn Q. Sau khi mua được chiếc vòng, Công ty trách nhiệm hữu hạn vàng bạc đá quý Quang Trung chi nhánh Lào Cai đã tiến hành gia công, sản xuất thành sản phẩm khác rồi bán ra thị trường nên cơ quan điều tra không thu giữ được. Về trách nhiệm dân sự: Ngày 28/10/2019, bà Nguyễn Thị M đã nhận lại số tiền 100.000 (một trăm nghìn đồng), còn số tiền 20.400.000 (hai mươi triệu bốn trăm nghìn đồng), bà Nguyễn Thị M cho bị cáo Nguyễn Văn Q và không yêu cầu phải bồi thường, về trách nhiệm hình sự, bà Nguyễn Thị M đề nghị xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 12 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng. Đề nghị hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Q từ 9 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo qui định pháp luật.

Tại phiên Tòa bị cáo Nguyễn Văn Q thành khẩn khai báo, bị cáo hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử, xử mức án nhẹ nhất để sớm về đoàn tụ gia đình.

Tại phiên tòa bị hại chị Nguyễn Thị M vắng mặt, tại đơn xin xét xử vắng mặt và các bản khai tại cơ quan điều tra, chị Mùi cho bị cáo số tiền phải bồi thường, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác đã có trong hồ sơ.

Bị cáo quyết do không có tiền tiêu sài, lợi dụng mẹ bị cáo là bà Nguyễn Thị M không quản lý tài sản đã nảy sinh ý định trộm cắp, bị cáo đã lén lút trộm cắp của bà Mùi 01 vòng bằng vàng. Như vậy Nguyễn Văn Q đã có hành vi trộm cắp tài sản, tội phạm và khung hình phạt được qui định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, tài sản bị cáo trộm cắp giá trị 20.500.000 VNĐ (hai mươi triệu năm trăm nghìn đồng); Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng pháp luật.

[2] Xét hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sỡ hữu hợp pháp tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an ở địa phương.. .

[3] Bị cáo Nguyễn Văn Q chưa có tiền án, đã có 02 tiền sự về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chưa được xóa án tích, như vậy bị cáo là người có nhân thân xấu. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, khi phạm tội gây thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn vàng bạc đá quý Quang Trung chi nhánh Lào Cai, chị Vũ Thu Hằng là nhân viên đã trực tiếp mua chiếc vòng bằng vàng của Nguyễn Văn Q, do chị Vũ Thu Hằng không biết tài sản do phạm tội mà có nên không đề nghị xử lý hình sự. Sau khi mua được chiếc vòng, Công ty trách nhiệm hữu hạn vàng bạc đá quý Quang Trung chi nhánh Lào Cai đã tiến hành gia công, sản xuất thành sản phẩm khác rồi bán ra thị trường nên cơ quan điều tra không thu giữ được.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại chị Nguyễn Thị M đã nhận lại một phần giá trị tài sản là 100.000 đồng (một trăm nghìn), số giá trị còn lại là 20.400.000 đồng (hai mươi triệu bốn trăm nghìn đồng) chị cho bị cáo, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, vì vậy hội đồng xét xử không giải quyết.

[7] Về vật chứng: Đối với 01 (một) chiếc tất màu đen, theo lời khai của Nguyễn Văn Q sau khi lấy được chiếc vòng đã vứt chiếc tất xuống suối và bị nước cuốn đi nên cơ quan điều tra không thu giữ được. Vì vậy hội đồng xét xử không giải quyết.

Đối với 01 (một) chiếc thẻ nhớ MICRO SD, loại dung lượng 8GB chứa nội dung người thanh niên có đặc điểm mặc áo phông cộc tay, màu đỏ có kẻ ngang màu trắng, mặc quần lửng mầu sẫm, đi dép giả da màu đen đang bán chiếc vòng tay cho một nữ nhân viên trong đoạn VIDEO được ghi lại trong Camera của Công ty trách nhiệm hữu hạn vàng bạc đá quý Quang Trung chi nhánh Lào Cai, được cho vào túi niêm phong mã số PS3 074981, được sản xuất tại Viện kỹ thuật hóa học – Sinh học và tài liệu nghiệp nghiệp vụ - TCIV – Bộ Công an. Đây là vật chứng của vụ án cần lưu trữ theo hồ sơ vụ án.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng” nhưng do bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội: “ Trộm cắp tài sản” Áp dụng điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11 tháng 10 năm 2019.

2. Về vật chứng: Giao cho Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai 01 (một) chiếc thẻ nhớ MICRO SD, loại dung lượng 8GB được cho vào túi niêm phong mã số PS3 074981, được sản xuất tại Viện kỹ thuật hóa học – Sinh học và tài liệu nghiệp nghiệp vụ - TCIV – Bộ Công an, ngoài bì niêm phong có ghi tên vụ án:

Trộm cắp tài sản; ngày thu mẫu: 19/10/2019; Đơn vị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bát Xát có chữ ký của Nguyễn Văn Q, Hà Thị Hoa, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Đức Hiền, Nguyễn Văn Cường lưu trữ theo hồ sơ vụ án.

3. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HSST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:60/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về