Bản án 60/2019/HS-PT ngày 23/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 60/2019/HS-PT NGÀY 23/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phốHồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số:554/2018/TLPT-HS, ngày 07/12/2018 đối với bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T do có kháng cáo của bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 138/2018/HSST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Bùi Nguyễn Hoàng T (Tên gọi khác: không có); giới tính: nam; sinh năm: 1997, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: số 830/22/24/13 đường DVB, Phường Q, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở trước khi bị bắt: số 756/33B đường DVB, Phường Q, Quận X, thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: không; Con ông Bùi Viết C và bà Nguyễn Thị Thanh H; Bị cáo có vợ là Trần Thùy V - sinh năm: 1998 và có 01 con là Bùi Nguyễn Minh Đ - sinh ngày 30/5/2018; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 21/3/2018. (Có mặt tại phiên tòa);

- Người bào chữa cho bị cáo T: Luật sư Nguyễn Chí L, thuộc Văn phòng luật sư LN - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt tại phiên tòa);

- Bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị:Thái Ngọc D (tên gọi khác là Tý Bụi); sinh năm 1992 tại Thành phố HồChí Minh; giới tính: Nam; hộ khẩu thường trú: 714/5A đường DVB, Phường Q, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; con ông Đỗ Trọng H và bà Thái Ngọc P; tiền sự: không; tiền án: Bản án 66/2011/HSST ngày 13/4/2011 của Tòa án nhân dân Quận C xử phạt 02 năm 06 tháng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Bản án 206/2014/HSST ngày 09/12/2014 của Tòa án nhân dân Quận C xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; nhân thân: Bản án 84/2018/HSST ngày09/10/2018 của Tòa án nhân dân Quận X xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 17/6/2018 tại Nhà tạm giữ Công an Quận X; (Vắng mặt tại phiên tòa)

- Các bị hại bà Châu Thị T, ông Lâm Trọng T, bà Hoàng Thị Huyền T; nguyên đơn dân sự Công ty trách nhiệm hữu hạn Điện tử viễn thông Hưng Thịnh P và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều không có kháng cáo và không có liên quan đến kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo nên Hội đồng xét xử không triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thái Ngọc D và Bùi Nguyễn Hoàng T là bạn bè. Thái Ngọc D đã rủ rê, bàn bạc, lập kế hoạch, cấu kết với bị cáo T cùng nhau đến địa bàn Quận C để chiếm đoạt xe gắn máy. Khi phát hiện xe gắn máy để sơ hở, không người trông coi thì bị cáo T sẽ làm nhiệm vụ cảnh giới, bị cáo D sẽ tiếp cận xe rồi dùng đoản kim loại phá khóa. Sau khi chiếm đoạt được xe thì các bị cáo đem bán lấy tiền sử dụng ma túy, chơi game và chia nhau tiêu xài. Bằng thủ đoạn trên, từ ngày 05/01/2018 đến 15/01/2018 các bị cáo đã thực hiện 04 vụ chiếm đoạt xe gắn máy, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 04 giờ, ngày 05/01/2018, các bị cáo đi bộ đến trước nhà số 27A đường 14A, tổ 1, Khu phố 5, phường TTT, Quận C, cả hai phát hiện chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda Vision, biển số 59K1 – 723.61 của bà Châu Thị T đang dựng trước nhà không khóa cổ, không có người trông coi. Trường đứng ngoài cảnh giới, còn D đi đến chiếm đoạt xe rồi cả hai đẩy bộ đến tiệm game bắn cá (không rõ địa chỉ) ở Quận X. Sau đó, bị cáo D đem xe đến hẻm 204 DVB, Phường 14, Quận X bán cho một người tên Được (chưa rõ lai lịch) với giá 3.500.000 đồng nhưng cho lại Được 500.000 đồng. Số tiền 3.000.000 đồng còn lại, bị cáo D mua ma túy sử dụng chung với bị cáo T.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 02 giờ ngày 08/01/2018, các bị cáo đi bộ đến trước khu nhà trọ số 99/5 Tân Mỹ, Khu phố 4, phường TTT, Quận C, bị cáo D phát hiện chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 47T1 – 078.13 của bà Dương Thị Thảo Duyên dựng ở hành lang để xe của nhà trọ, không có người trông coi. Bị cáo T đứng ngoài cảnh giới, bị cáo D đi đến, dùng đoản kim loại phá khóa, khởi động máy chở bị cáo T tẩu thoát. Bị cáo D đem chiếc xe chiếm đoạt được đến hẻm 204 DVB, Phường 14, Quận X bán cho Được với giá3.000.000 đồng nhưng cho lại Được 500.000 đồng. Số tiền 2.500.000 đồng còn lại, bị cáo D mua ma túy sử dụng chung với bị cáo T.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 15 giờ ngày 15/01/2018, bị cáo T điều khiển xe máy biển số 50N1 - 051.11 chở bị cáo D từ Quận X đến trước nhà số 124 đường số 43, phường Tân Quy, Quận C thì cả hai phát hiện xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 54Z5 - 8999 của ông Lâm Trọng T để trong sân nhà, không có người trông coi. Bị cáo T đứng ngoài cảnh giới, bị cáo D đi đến dùng đoản kim loại phá khóa, khởi động máy rồi cùng bị cáo T tẩu thoát. Bị cáo D đem chiếc xe chiếm đoạt được đến hẻm 204 DVB, Phường 14, Quận X cho bán Được với giá 3.000.000 đồng. Bị cáo D cho lại Được 500.000 đồng, chia cho bị cáo T1.000.000 đồng, còn lại 1.500.000 đồng thì tự giữ tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tư: Vào khoảng 22 giờ ngày 15/01/2018, các bị cáo đi bộ đến trước nhà số 155 đường 45, phường Tân Quy, Quận C thì phát hiện chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Wave, biển số 59S2 - 843.66 của ông Lê Đức Hào để trước cửa, không có người trông coi. Bị cáo T đứng ngoài cảnh giới, bị cáo D đi đến dùng đoản kim loại phá khóa xe, khởi động máy chở bị cáo T tẩu thoát. Bị cáo D đem chiếc xe chiếm đoạt được đến hẻm 204 DVB, Phường 14, Quận X bán cho Được với giá 2.000.000 đồng nhưng cho lại Được 500.000 đồng. Số tiền 1.500.000 đồng còn lại bị cáo D mua ma túy sử dụng chung với bị cáo T.

Ngoài ra, D, T còn khai nhận trong tháng 12/2017 đã cùng với một đối tượng tên Hải và một người đàn ông (không rõ lai lịch) thực hiện trót lọt 04 vụ trộm cắp xe máy tại các địa bàn các phường Bình Thuận và phường Tây Thuận Tây, Quận C. Tuy nhiên, do không xác định được người bị hại, không thu hồi được vật chứng nên không có cơ sở kết luận D, T cùng đồng phạm thực hiện các vụ này. D, T còn thực hiện 01 vụ trộm cắp xe máy hiệu Mio Ultimo màu đen tại địa bàn Quận X.

Đến khoảng 21 giờ 20 phút ngày 18/01/2018 Công an Phường 4, Quận X tuần tra đến trước nhà số 36 đường 19, Phường 4, Quận X phát hiện các bị cáo có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Các bị cáo khai nhận ngoài những vụ chiếm đoạt xe gắn máy tại Quận C, các bị cáo còn chiếm đoạt một chiếc xe gắn máy tại Quận X. Do đó, Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận X chuyển giao bốn vụ chiếm đoạt xe gắn máy mà các bị cáo thực hiện tại Quận C cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận C xử lý; riêng vụ chiếm đoạt xe gắn máy tại Quận X thì Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận X tiếp tục thụ lý theo thẩm quyền.

Sau đó Thái Ngọc D bỏ trốn, các Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận X và Công an Quận C ra Quyết định truy nã. Đến ngày 17/6/2018 thì bị cáo D bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an Quận X.

Kết luận định giá tài sản số 46/KL-HĐĐGTTHS ngày 02/3/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận C đã xác định, tại thời điểm bị chiếm đoạt: chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 54Z5 - 8999 có giá trị là 9.000.000 đồng; chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda Wave biển số 59S2 - 843.66 có giá trị là 9.000.000 đồng; chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda Vision biển số 59K1 - 723.61 có giá trị là 20.000.000 đồng và chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 47T1 - 078.13 có giá trị là 10.000.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 132/CT-VKS ngày 27/9/2018 Viện kiểm sát nhân dân Quận C đã truy tố Thái Ngọc D về tội “Trộm cắp tài sản” theo các điểm a, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và truy tố Bùi Nguyễn Hoàng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo Thái Ngọc D và Bùi Nguyễn Hoàng T đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 138/2018/HSST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (kèm theo Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án) đã quyết định:

- Tuyên bố các bị cáo Thái Ngọc D, Bùi Nguyễn Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm a, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo Thái Ngọc D 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo Thái Ngọc D đi chấp hành hình phạt tù.

2. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/3/2018.

Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/11/2018, bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xác định và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đưa ra ý kiến phát biểu: Sau khi xem xét tất cả lời khai, tình tiết trong hồ sơ vụ án, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất cũng như mức độ của hậu quả đã xảy ra. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và y án sơ thẩm.

Bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T không có ý kiến tranh luận, đồng thời đề nghị luật sư bào chữa cho bị cáo và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư Nguyễn Chí L bào chữa cho bị cáo phát biểu: Với tình tiết, hành vi phạm tội của bị cáo D và bị cáo T đã thực hiện, theo lời khai của các bị cáo thì chỉ là đồng phạm giản đơn chứ không phải là phạm tội có tổ chức. Mặt khác, Quyết định xử phạt hành chính của Công an Quận X là không đúng về hình thức và nội dung nên cần xét nhân thân bị cáo T là tốt, mặt khác bị cáo đã khắc phục toàn bộ hậu quả thay cho cả phần trách nhiệm của bị cáo D. Từ đó, do bị cáo phạm tội lần đầu và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo ở đầu khung hình phạt là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Về đối đáp, luật sư và đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên qua điểm của mình và đề nghị Hội đồng xét xử ra bản án đúng người, đúng tội theo các quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Ngày 30/10/2018, Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí minh xét xử sơ thẩm, đến ngày 01/11/2018 bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

 [2] Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, từ đó có đủ cơ sở để kết luận: Lợi dụng sự sơ hở, thiếu cảnh giác của chủ sở hữu, người quản lý tài sản, các bị cáo Thái Ngọc D và Bùi Nguyễn Hoang Trường đã bàn bạc, lập kế hoạch, phân công, cấu kết chặt chẽ với nhau cùng thực hiện hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt 04 xe gắn máy tại địa bàn Quận C rồi đem bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, chơi game và sử dụng ma túy. Cụ thể: Ngày 05/01/2018 các bị cáo chiếm đoạt chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda Vision, biển số 59K1 - 723.61 có giá trị 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 08/01/2018 chiếm đoạt chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 47T1 - 078.13 có giá trị là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng); ngày 15/01/2018 chiếm đoạt chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 54Z5 - 8999 có giá trị 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) và chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda Wave biển số 59S2 - 843.66 có giá trị là 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng). Tổng giá trị tài sản mà các bị cáo đã chiếm đoạt là 48.000.000 đồng (Bốn mươi tám triệu đồng).

Hành vi của Bùi Nguyễn Hoàng T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực cho Thái Ngọc D, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009. Tòa án nhân dân Quận C đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Xét đơn kháng cáo của bị cáo:

Trong đơn kháng cáo và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Về hình phạt đã áp dụng đối với bị cáo, khi lượng hình thì Tòa án nhân dân Quận C đã xem xét đến các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ cho bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản, giá trị tài sản từng lần bị chiếm đoạt đều từ trên 2.000.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở.

Về tình tiết giảm nhẹ, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết: các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; riêng bị cáo T đã tích cực tác động gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại và đã được người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo mới phạm tội lần đầu, có cha ruột là người có công với cách mạng, theo quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Tại phiên tòa phúc thẩm, mặc dù gia đình bị cáo không cung cấp thêm chứng cứ và tình tiết nào mới, song Hội đồng xét xử nhận định cấp sơ thẩm còn thiếu sót khi chưa áp dụng thêm tình tiết bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo có vợ và con nhỏ mới sinh ngày 30/5/2018. Tuy nhiên, trên cơ sở nhân thân người phạm tội, tính chất đồng phạm, xét thấy mức án 03 năm tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là đã tương xứng và phù hợp với mức độ cũng như hậu quả của hành vi phạm tội, để bị cáo có đủ thời gian tự rèn luyện trở thành người công dân lương thiện, có ích cho xã hội và biết tôn trọng pháp luật.

 [4] Những lập luận trên đây là căn cứ để chấp nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa và không chấp nhận lời bào chữa của luật sư tại phiên tòa.

 [5] Căn cứ vào khoản 3 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án đối với bị cáo không bị kháng cáo, không bị kháng nghị. Theo hồ sơ thể hiện thì bị cáo Thái Ngọc D đã bị Cơ quan cảnh sát điều công an Quận X bắt, tạm giam theo lệnh truy nã từ ngày 16/7/2018 và Tòa án nhân dân Quận X đã xét xử theo Bản án hình sư sơ thẩm số 84/2018/HSST ngày 09/10/2018 về tội danh “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, với hình phạt là 01 năm 06 tháng tù, đến nay đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy để đảm bảo cho việc Thi hành án, nên căn cứ vào điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo D.

Mặt khác, bị cáo D bị bắt tạm giam từ ngày 17/6/2018 cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, do đó thời hạn hình phạt tù áp dụng đối với bị cáo D được tính từ ngày 16/7/2018, cấp sơ thẩm tuyên thời hạn tù của bị cáo D tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù là chưa đầy đủ, cần rút kinh nghiệm.

 [5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

 [6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 138/2018/HSST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Tuyên bố các bị cáo Thái Ngọc D, Bùi Nguyễn Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

3. Xử:

3.1/ Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T: 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/3/2018.

3.2/ Áp dụng các điểm a, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,

Xử phạt: Bị cáo Thái Ngọc D 05 (năm) năm tù. Tổng hợp hình phạt với Bản án hình sư sơ thẩm số 84/2018/HSST ngày 09/10/2018 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thì hình phạt tù chung đối với bị cáo Thái Ngọc D tổng cộng là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 16/7/2018.

4. Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và áp dụng Điều 22 và 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quyết định về mức thu, miễn giám, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án ngày 30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án;

Bị cáo Bùi Nguyễn Hoàng T phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 (hai trăm) nghìn đồng.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HS-PT ngày 23/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:60/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về