Bản án 60/2018/HS-ST ngày 21/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 60/2018/HS-ST NGÀY 21/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2018/TLST- HS ngày 18 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Quang Đ (tên gọi khác: B), sinh ngày: 18/3/1994, tại tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: Tổ 3, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn N và con bà Hà Thị H; chưa có vợ, con; nhân thân: Ngày 11/11/2016 bị Công an phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 27/4/2017 bị Công an thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đều đã chấp hành xong; Tại bản án hình sự sơ thẩm số 52/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xử phạt 04 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; bị bắt tạm giữ từ ngày 27/6/2018, sau đó chuyển tạm giam; có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Ông Võ Văn M; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 27/6/2018, khi đang chơi Game tại quán Internet Pro, thuộc tổ 3, phường N, thị xã G, thì Bùi Quang Đ nhờ một người bạn chơi Game cùng chở Đức đến phòng trọ của Lương Ngọc T tại tổ 2, phường N để mua ma túy về sử dụng.

Khi đến nơi, Đức một mình đi vào phòng trọ của T. Tại đây, Đ gặp người phụ nữ tên H và một người đàn ông đang ngồi sử dụng ma túy. H rủ Đức sử dụng ma túy cùng và hỏi “Xuống có chuyện gì vậy”, Đ trả lời “Em xuống tìm anh T lấy xe và lấy ít đồ” (Ý nói lấy xe mô tô và mua ma túy), H hỏi tiếp “Lấy nhiều không”, thì Đ trả lời lấy 300.000 đồng nhưng chỉ có 280.000 đồng, H vẫn đồng ý bán. H nhận tiền từ Đ rồi nói người đàn ông đưa cho Đ 01 gói nilon màu trắng được hàn kín các góc. Đ cầm gói ma túy từ người đàn ông cất giấu vào túi quần bên phải, rồi cả ba tiếp tục sử dụng ma túy. Sử dụng ma túy xong, H và người thành niên điều khiển xe mô tô đi về trước, còn Đ ở lại phòng. Cùng thời điểm này, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa đến khám xét khẩn cấp phòng trọ của T. Cơ quan điều tra phát hiện Đ đang cất giấu trong túi quần bên phải của mình 01 gói nilon màu trắng được hàn kín các góc, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, kích thước (1,1 x 2,9)cm. Đ khai nhận gói ma túy này là do Đ vừa mua của đối tượng tên H và người đàn ông chưa rõ nhân thân để đưa về sử dụng.

Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu: 01 gói nilon màu trắng được hàn kín các góc, kích thước 1,1x2,9cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng (Được niêm phong trong 01 phong bì ghi ngày 27/6/2018, có chữ ký xác nhận của ông Nguyễn Đại C, Nguyễn Đình S, Võ Văn M, Bùi Quang Đ và có dấu xác nhận của Công an phường N, thị xã G).

Tại Bản kết luận giám định số 42-KLMT/PC54 ngày 03/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Tinh thể màu trắng trong gói nilon gửi giám định là chất ma túy Methamphetamine, khối lượng 0,3491 gam. Hoàn trả sau giám định 0,2064 gam.

Tại bản Cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 16 tháng 10 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông đã truy tố bị cáo Bùi Quang Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình và thừa nhận Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh, điểm, khoản và Điều luật áp dụng như Cáo trạng là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Quang Đ từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 04 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 27/6/2018.

Việc xử lý vật chứng: Đối với mẫu vật còn lại sau giám định là 0,2064 gam Methamphetamine cần tịch thu, tiêu hủy.

Tại phiên tòa bị cáo không trình bày lời bào chữa, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật của vụ án và các chứng cứ khác đã được lưu trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử có căn cứ xác định: Bùi Quang Đ bị nghiện ma túy, ngày 27/6/2018 Đ đã tàng trữ trái phép trên người 0,3491gam ma túy Methamphetamine để sử dụng. Như vậy, hành vi của bị cáo Bùi Quang Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa truy tố bị cáo về tội danh và Điều luật như Cáo trạng là có căn cứ.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do vậy cần xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn nhằm trừng trị và ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới.

[3] Xét thấy, bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính và đã từng bị kết án về tội “Cố ý gây thương tích”. Tuy nhiên, quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, tại phiên toà cũng đã thể hiện thái độ ăn năn, hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,2064 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn trả sau giám định (đã được niêm phong) là vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Trong vụ án này đối tượng tên H và người đàn ông đã bán ma túy cho Bùi Quang Đ. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch và không biết hai người này hiện nay ở đâu. Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp.

[6] Xét quan điểm đề nghị về mức hình phạt đối với bị cáo của Viện kiểm sát chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt cao hơn mức đề nghị của Viện kiểm sát mới đảm bảo được mục đích của hình phạt.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố:

Bị cáo Bùi Quang Đ (tên gọi khác: B) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bùi Quang Đ (tên gọi khác: B) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 04 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 01 (một) năm 10 (mười) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 27/6/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,2064 gam Methamphetamine là mẫu vật hoàn trả sau giám định (đã được niêm phong)(có đặc điểm như trong biên bản giao vật chứng ngày 19/10/2018 giữa Công an thị xã Gia Nghĩa và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G, tỉnh Đắk Nông).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Bùi Quang Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2018/HS-ST ngày 21/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về