Bản án 60/2018/HSST ngày 20/08/2018 về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 60/2018/HSST NGÀY 20/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 20 tháng 08 năm 2018. Tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang- Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 57/2018/HSST ngày 28 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn P, sinh năm 1979. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Trú quán: thôn GT, xã TH, huyện LN, tỉnh BG. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm ruộng. Đảng, chính quyền, đoàn thể: không. Trình độ học vấn: 6/12. Họ tên cha: Nguyễn Nhật Đ, sinh năm 1950. Họ tên mẹ: Vi Thị A, sinh năm 1954. Vợ: Vi Thị H, sinh năm 1981. Con: Có 2 con (con lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2002). Anh chị em ruột: Có 05 anh em, bị cáo là thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1987 (vắng mặt) Trú quán: thôn TL, xã TH, huyện LN, tỉnh BG.

- Anh Trần Văn L, sinh năm 1977 (vắng mặt) Trú quán: thôn TT, xã TH, huyện LN, tỉnh BG.

- Anh Nguyễn Xuân N, sinh năm 1963 (vắng mặt)

Trú quán: Số nhà 197, đường Nguyễn Công H, phường Trần Nguyên H, thành phố BG.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bị cáo Nguyễn Văn P, trú quán: thôn GT, xã TH, huyện LN, tỉnh BG lái máy xúc thuê tại xã Hữu Kiên, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Trong thời gian làm việc tại đây, Nguyễn Văn P có quen biết một thanh niên khoảng 30 tuổi, qua nói chuyện P đặt vấn đề muốn mua pháo đốt dịp tết Nguyên Đán, người này bảo P cho số điện thoại của P nếu có pháo thì người này sẽ liên lạc. Buổi chiều ngày 26/12/2017 có người gọi điện thoại cho P bảo có mua pháo thì lên, P bảo muốn mua 2.000.000 đồng tiền pháo bao gồm loại pháo trứng và pháo bệ. Sau đó cả hai thống nhất thời gian và địa điểm giao dịch mua bán pháo. Khoảng 18 giờ ngày 26/12/2017 sau khi lái máy xúc thuê cho anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1987, trú tại thôn TL, xã TH, huyện LN, tỉnh BG xong, P mượn xe mô tô biển số 98B1-813.21 của anh N để về nhà. Sau khi mượn được xe mô tô P điều khiển xe đi lên xã Hữu Kiên, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn để mua pháo theo như đã hẹn. Khoảng 21 giờ ngày 26/12/2017 P đến nơi hẹn và chờ đến 24 giờ cùng ngày thì có một người thanh niên đi xe máy chở theo 01 bao tơ dứa bên trong có chứa pháo đến giao cho P. P không mở bao pháo ra kiểm tra mà trả luôn số tiền 2.000.000 đồng theo như đã thỏa thuận cho người thanh niên bán pháo. Sau đó P cho bao tải có chứa pháo buộc lên yên xe mô tô phía sau rồi chở về nhà. Đến khoảng 1 giờ 30 phút ngày 27/12/2017 khi P điều khiển xe mô tô chở bao pháo đến đoạn đường thuộc địa phận thôn Khuôn Tỏ, xã Tân Sơn, huyện Lục Ngạn thì bị tổ tuần tra của Đồn công an Tân Sơn – Công an huyện Lục Ngạn phối hợp với Công an xã Tân Sơn kiểm tra phát hiện trong bao tơ dứa trên xe mô tô do P điều khiển gồm có 08 hình hộp, mỗi hộp có 36 hình trụ liên kết với nhau bằng dây dẫn và 220 vật hình cầu, nghi là pháo nổ. Tổ công tác đã lập biên bản kiểm tra thu giữ số vật nghi là pháo nổ trên được niêm phong vào thùng cát tông dán kín có chữ ký của Nguyễn Văn P và người làm chứng, người liên quan. Đồng thời thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA - WAVEα, màu xanh, biển số 98B1- 813.21, 01 điện thoại di dộng màu trắng sữa, loại cảm ứng, nhãn hiệu MobiiStar. Ngày 28/12/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn ra quyết định trưng cầu giám định số pháo đã thu giữ của Nguyễn Văn P nêu trên. Tại bản Kết luận giám định số 6579/C54-P2 ngày 08/01/2018 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Các mẫu vật gửi giám định đều là pháo hoa, có chứa thuốc pháo, khi đốt phát ra tiếng nổ và ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 19 kg .

Ngày 30/3/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Lục Ngạn ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 95/CSĐT giám định số mẫu vật đã giám định nêu trên có phải là pháo nổ hay là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ). Tại Kết luận giám định số 1898/C54-P2 ngày 12/4/2018 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: các mẫu vật gửi đến giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ).

Tại bản Cáo trạng số 52/KSĐT ngày 27/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Ngạn truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội “Tàng trữ vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích các tình tiết của vụ án giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Tàng trữ vận chuyển hàng cấm”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015. Lần phạm tội này của bị cáo là phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố đẻ bị cáo là ông Nguyễn Nhật Đ là người có công với cách mạng được thưởng huân huy chương trong kháng chiến. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P từ 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng. Do bị cáo P thuộc diện hộ cận nghèo đề nghị HĐXX miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền và tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn P.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đồng thời đã giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng theo đúng quy định của pháp luật. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt những người này cũng không có yêu cầu gì. Hội đồng xét xử thảo luận đã quyết định căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, quyết định xét xử vắng mặt họ.

[2]. Nội dung: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như Cáo trạng truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp cùng tang vật thu giữ, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Đã có đủ cơ sở kết luận, ngày 26/12/2017 bị cáo Nguyễn Văn P điều khiển xe mô tô đi từ huyện Lục Ngạn lên xã Hữu Kiên, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn mục đích để mua pháo mang về nhà đốt chơi tết. Khi đến nơi, P đã mua của một người đàn ông không quen biết 19 kg pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ với giá 2.000.000 đồng. Khoảng 01 giờ 30 Pt ngày 27/12/2017 trên đường P điều khiển xe mô tô vận chuyển số pháo trên về đến địa phận thôn Khuôn Tỏ, xã Tân Sơn, huyện Lục Ngạn thì bị tổ tuần tra của Đồn công an Tân Sơn – Công an huyện Lục Ngạn phối hợp với Công an xã Tân Sơn kiểm tra phát hiện thu giữ toàn bộ tang vật. Căn cứ Công văn 340/TANDTC-PC ngày 22/12/2017 của Tòa án nhân dân tối cao. Điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 hành vi của bị cáo Nguyễn Văn P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm” là pháo nổ. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Ngạn truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xậm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, hành vi tàng trữ hàng cấm là pháo nổ của bị cáo gây guy hại cho an ninh, trật tự an toàn xã hội cũng như gây phương hại đến sức khỏe đối với những người xung quanh và bản thân người tham gia đốt pháo.

Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự.

Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Những tình tiết này được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bố bị cáo là ông Nguyễn Nhật Đ là người tham gia kháng chiến, có công với cách mạng được thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất, huân chương chiến sĩ vẻ vang, huân chương chiến sĩ giải phóng miền trung trung bộ, tình tiết này HĐXX xét thấy cần xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Những tình tiết giảm nhẹ này xét thấy cần được xem xét cho bị cáo khi lượng hình. Xét thấy chưa cần thiết phải cách ly bị cáo P ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần cho bị cáo cải tạo, giáo dục bị cáo tại địa phương là đủ, để bị cáo có cơ hội trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

Xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Do bị cáo Nguyễn Văn P thuộc diện hộ cận nghèo nên HĐXX xét thấy cần phải miễn hình phạt bổ sung là phù hợp, đúng quy định pháp luật.

Về án phí: Do bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, căn cứ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, xét thấy cần xem xét miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội "Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm” Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã TH, huyện LN, tỉnh BG giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú áp dụng khoản 1Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2018/HSST ngày 20/08/2018 về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:60/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về