Bản án 60/2017/HSST ngày 07/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 60/2017/HSST NGÀY 07/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 9 năm 2016 tại Nhà văn hóa Tổ 12, phường Trưng Trắc, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2017/TLST- HS ngày 14 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên Ma Thành V, sinh ngày 01/12/1991. HKTT: Xóm N R, xã V , huyện Nhai, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Ma Văn T và con bà Ma Thị T; Vợ Ma Thị T, con 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 05/6/2017 bị Ủy ban kiểm tra huyện ủy V, tỉnh T quyết định Đình chỉ sinh hoạt Đảng. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/6/2017 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc.

Người bị hại: Chị Phùng Thị Ngọc T, sinh năm 1984 

Cư trú: Tổ 6, phường Đ, thị xã P, tỉnh V (vắng mặt)

NHẬN THẤY

Bị cáo Ma Thành V bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 10h ngày 26/5/2017 Ma Thành V sau khi phỏng vấn hồ sơ xin việc làm tại Công ty Honđa Việt Nam thuộc phường Phúc Thắng , thị xã Phúc Yên xong V đi bộ ra cổng số 3 của Công ty Honđa để đợi bạn. Khoảng 10 phút sau chị Phùng Thị Ngọc T đi xe mô tô nhãn hiệu Lead Biển kiểm soát (BKS): 88K3- 5069 đến cổng số 3 và dựng xe ở gần chỗ V đang đứng rồi đi vào bên trong công ty có việc. Do yên xe của chị T chưa đóng khóa, V nhìn thấy bên trong cốp dưới yên xe có 01 túi xách giả da màu đỏ liền nảy sinh ý trộm cắp chiếc túi trên, quan sát xung quanh thấy không có ai để ý V đến dùng tay phải nhấc yên xe lên rồi tay trái lấy chiếc túi xách của chị T giấu vào bên trong áo sơ my đang mặc trên người, sau đó đem túi đến nghĩa trang liệt sỹ phường Phúc Thắng ở cạnh đó lục soát lấy 01 chiếc điện thoại di động (ĐTDĐ) nhãn hiệu OPPO R7 màu vàng đúc vào túi quần đang mặc trên người. Do sợ bị phát hiện và bắt giữ V lục soát không kỹ và cho rằng trong túi xách của chị T không còn tài sản, V vứt bỏ chiếc túi xách vào bụi cây trong khuôn viên nghĩa trang rồi lấy xe môtô Sirius BKS: 20D1- 02035 của mình đi về nhà. Trên đường về V vào một quán sửa điện thoại ven đường đến nay không xác định được địa chỉ phá khóa mật khẩu điện thoại sau đó đem về nhà sử dụng.

Ngày 31/5/2017 V để chiếc ĐTDĐ trộm cắp được vào trong cốp xe mô tô của mình rồi đên Công ty Honđa Việt Nam để bổ sung hồ sơ xin việc thì bị cơ quan điều tra triệu tập làm việc. Tại cơ quan điều tra V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên đồng thời chỉ dẫn cơ quan điều tra đến chỗ vứt bỏ chiếc túi xách để thu giữ vật chứng.

*Vật chứng thu giữ gồm:

- Thu giữ tại cốp xe môtô BKS: 20D1- 02035 của V 01 chiếc ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO R7 màu vàng;

- Thu giữ 01 túi xách giả da màu đỏ bên trong túi có: 01 ví giả da bên trong có số tiền 4.557.000đ; 01 đồng hồ nữ màu vàng trắng bằng kim loại trên mặt đồng hồ có in dòng chữ ESSENCE; 01 thẻ căn cước công dân, 01 thẻ Hon đa, 01 thẻ ATM, 01 thẻ y tế và 01 giấy phép lái xe mô tô (đều mang tên Phùng Thị Ngọc T.

- 01 chiếc xe mô tô Sirius BKS: 20D1- 02035 của Ma Thành V.

Tại kết luận định giá tài sản số 30 ngày 02/6/2017, Hội đồng định giá tài sản thị xã Phúc Yên kết luận: 01 chiếc điện thoại; 01 đồng hồ đeo tay; 01 chiếc túi xách; 01 ví giả da có tổng giá trị là: 2.190.000 VNĐ (Trong đó điện thoại: 2.000.000đ, đồng hồ: 50.000đ, túi xách: 120.000đ, ví: 20.000đ ). Tiền có trong ví 4.557.000đ, tổng trị giá tài sản V trộm cắp của chị T là 6.747.000VNĐ.

Tại bản cáo trạng số: 61/KSĐT- TA ngày 14 tháng 8 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên truy tố bị cáo Ma Thành V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Ma Thành V từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/6/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Toàn bộ tài sản của chị T bị trộm cắp ngày 24/6/2017 cơ quan điều tra đã trả lại cho chị T, đến nay bị hại không đề nghị gì khác nên không đề nghị giải quyết.

Đề nghị: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS trả lại cho Ma Thành V 01 chiếc xe mô tô BKS: 20D1- 02035 vì không dùng vào mục đích phạm tội.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phúc Yên đã truy tố. Bị cáo khai khoảng 10h ngày 26/5/2017 tại cổng số 3 của Công ty Hon đa Việt Nam thuộc phường Phúc Thắng, thị xã Phúc Yên. Ma Thành V có hành vi trộm cắp 01 chiếc túi xách giả da màu đỏ (bên trong túi có 01 chiếc điện thoại OPPO; 01 đồng hồ nữ; 01 thẻ căn cước, 01 thẻ Honda, 01 thẻ ATM, 01 thẻ y tế; 01 giấy phép lái xe mô tô và 01 ví giả da bên trong có số tiền 4.557.000đ của chị Phùng Thị Ngọc T. Tổng trị giá tài sản là 6.747.000VNĐ.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của Ma Thành V đối với chị T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự. Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng ... thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an và an toàn xã hội, gây lo lắng trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến phong trào phòng chống tội phạm trên đại bàn thị xã Phúc Yên. Do vậy Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên đưa vụ án ra xét xử lưu động là nhằm mục đích tuyên truyền giáo dục pháp luật và cần xử phạt nghiêm bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng riêng và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo được sinh ra trong gia đình thuầnnông, học hết lớp 9/12 thì nghỉ học. Tháng 3/2010 nhập ngũ, đến tháng 7/2011 được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam, tháng 8/2011 xuất ngũ về địa phương. Từ tháng 7/2012 là Đảng viên chính thức sinh hoạt tại Chi bộ Na Rang xã Vũ Chấn, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Ngày 05/6/2017 bị Ủy ban kiểm tra Huyện ủy Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên quyết định Đình chỉ sinh hoạt Đảng. Khi xuống Công ty Honda Việt Nam để xin việc làm, thấy người bị hại sơ hở nên đã nảy sinh lòng tham trộm cắp tài sản. Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp một cách hết sức giản đơn khi thấy có sự sơ hở, bất cẩn của người bị hại trong việc quản lý tài sản. Khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự gì, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự đó là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Phùng Thị Ngọc T đã nhận lại toàn bộ tài sản là 01 chiếc túi xách giả da màu đỏ; 01 chiếc điện thoại OPPO; 01 ví giả da; 01 đồng hồ nữ; 01 thẻ căn cước, 01 thẻ hon đa, 01 thẻ ATM, 01 thẻ y tế và 01 giấy phép lái xe mô tô, số tiền 4.557.000đ và không có yêu cầu gì khác đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS cần trả lại cho Ma Thành V01 chiếc xe mô tô BKS: 20D1- 02035 vì không dùng vào mục đích phạm tội.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ xung bằng tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ma Thành V phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Ma Thành V 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 03/6/2017.

Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS trả lại cho Ma Thành V 01 chiếc xe mô tô BKS: 20D1- 02035.(Tài sản có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 9 năm 2017).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14: Bị cáo Ma Thành V phải chịu chịu 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2017/HSST ngày 07/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:60/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về