Bản án 59/2020/HS-PT ngày 29/07/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 59/2020/HS-PT NGÀY 29/07/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/TLPT-HS ngày 22 tháng 5 năm 2020 do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đối với Bản án hình sơ thẩm số 04/2020/HSST ngày 27 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ.

Bị cáo bị kháng nghị:

Họ và tên: Hoàng Thị M; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1982; Nơi sinh: Huyện S, tỉnh Phú Thọ. Hộ khẩu thường trú, chỗ ở: Khu C, xã T, huyện S, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Làm ruộng;Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Con ông: Hoàng Văn M, sinh năm 1954; Con bà: Hoàng Thị L, sinh năm 1949; Tiền án, Tiền sự: Chưa; Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam. Hiện đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 02/2020/QĐ-CA ngày012/3/2020 của Toà án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 20 phút ngày 29/12/2019, Tổ Công tác Công an huyện S, tỉnh Phú Thọ kiểm tra phát hiện Hoàng Thị M đang bán số lô, số đề tại nhà ở của mình cho Hà Viết C. Cụ thể: C mua số lô: 36, 46, 54, 64, 58 mỗi số 30 điểm tổng 150 điểm lô (Giá một điểm lô là 23.000 đồng) tương ứng với số tiền 3.450.000 đồng; Mua số đề: 40 với số tiền 100.000 đồng, số đề 34 với số tiền 50.000 đồng. Tổng số tiền C mua số lô, số đề của M là 3.600.000 đồng. M ghi các số lô, số đề trên vào một mảnh giấy do M giữ đồng thời ghi các con số lô, số đề C mua vào mảnh giấy (cáp đề) đưa cho C, C đưa số tiền 3.600.000 đồng cho M, trong lúc giao nhận tiền thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S phát hiện tiến hành lập biên bản sự việc và thu giữ số tiền 3.600.000 đồng, 01 bút bi mực màu xanh, 01 mảnh giấy ghi các chữ và số (bảng đề, thu của Hoàng Thị M), 01 mảnh giấy ghi các chữ và số (cáp đề, thu của Hà Viết C).

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S đấu tranh làm rõ trong ngày 29/12/2019 ngoài việc bán số lô, số đề cho C. M còn bán cho Hà Văn L số lô: 23, 32, 24, 42, 22 mỗi số 20 điểm, tổng 100 điểm lô với số tiền 2.300.000 đồng. Bán số đề: 17, 71, 22, 00, 45 mỗi số 20.000 đồng, tổng số tiền mua số đề là 100.000 đồng. Tổng số tiền L mua số lô, số đề của M là 2.400.000 đồng. Bị cáo M ghi các số lô, số đề cho L mua vào một mảnh giấy do M giữ đồng thời ghi các con số lô, số đề L mua vào mảnh giấy (cáp đề) đưa cho L.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S, L đã tự nguyện giao nộp 01 mảnh giấy ghi các số lô, số đề L mua của M trước đó. Bị cáo M tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S số tiền 2.400.000 đồng là số tiền M bán số lô, số đề trước đó cho L. Như vậy, tổng số tiền Hoàng Thị M đã bán số lô, số đề cho Hà Viết C và Hà Văn L trong ngày 29/12/2019 là 6.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Hoàng Thị M khai nhận ngày 29/12/2019 Hoàng Thị M bán số lô, số đề cho khách mua số lô, số đề để thu lợi bất chính rồi tự đứng ra trả thưởng cho khách trúng thưởng dựa vào kết quả xổ số kiến thiết Miền bắc mở thưởng hàng ngày. Hình thức đánh bạc và tỷ lệ được thua bằng tiền dưới hình thức ghi số lô, số đề được các đối tượng quy ước như sau: Người ghi số lô, số đề lựa chọn các số tự nhiên bất kỳ từ 00 đến 99, sau đó đem so sánh với hai số cuối của giải đặc biệt (đối với số đề) hoặc so sánh với hai số cuối của tất cả các giải (đối với số lô) của kết quả Xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng ngày hôm đó. Nếu người mua số đề trùng với hai số cuối của giải đặc biệt thì được đề (thắng bạc) và được M trả thưởng gấp 70 lần số tiền người mua số đề đã bỏ ra; nếu người mua số lô trùng với hai số cuối của các giải thì được lô (thắng bạc) và được M trả thưởng 80.000 đồng trên một điểm lô (mỗi điểm lô M bán = 23.000 đồng /01 điểm). Nếu số lô, số đề người chơi đã mua không trùng với các giải đã nêu trên thì bị thua bạc và mất số tiền đã bỏ ra. Số tiền này M sẽ được hưởng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2020/HSST ngày 27 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ đã:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 1, khoản 2 Điều 36 của Bộ luật hình sự; Điểm d khoản 1 Điều 125 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên bố Bị cáo Hoàng Thị M phạm tội: “Đánh bạc”.

Xử phạt Bị cáo Hoàng Thị M 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã T; huyện S, tỉnh Phú Thọ, nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Gia đình Bị cáo M có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Phú Thọ trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung, miễn khấu trừ thu nhập và miễn cho Bị cáo không phải thực hiện một số công việc lao động trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Bản án còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo và các vấn đề khác đúng quy định của pháp luật.

Ngày 24/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ kháng nghị đối với bản hình sự sơ thẩm số: 04/2020/HSST ngày 27 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ. Đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng tuyên đầy đủ nghĩa vụ của bị cáo trong quá trình hình phạt cả tạo không giam giữ.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ giữ nguyên quan điểm kháng nghị.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật hình sự. Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ. Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2020/HSST ngày 27 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Phú Thọ theo hướng buộc bại cáo Hoàng Thị M phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Kháng nghị của viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ trong thời hạn nên được xem xét, giải quyết.

[2] Về nội dung vụ án: Tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm bị cáo đều khai nhận đã có hành vi phạm tội nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ căn cứ xác định: Trong ngày 29/12/2019, Hoàng Thị M có hành vi “Đánh bạc: bằng hình thức bán số lô, số đề tại nhà ở của mình cho các đối tượng Hà Việt C là 3.600.000 đồng và M bán số lô, số đề cho Hà Văn L là 2.400.000đ. Tổng số tiền Bị cáo Hoàng Thị M dùng để “Đánh bạc” là 6.000.000đ.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội không oan đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ, Hội đồng xét xử xét thấy:

Căn cứ theo khoản 4 Điều 36 Bộ luật hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 12 tháng cải tạo không giam giữ thì phải buộc bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Bị cáo hiện đang làm ruộng tại địa phương, không phải thuộc trường hơp là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yêu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm miễn khấu trừ thu nhập, đồng thời tuyên không buộc bị cáo phải lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là không đúng theo quy định của pháp luật.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ.

[4] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ. Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2020/HSST ngày 27 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện S.

[2] Tuyên bố Bị cáo Hoàng Thị M phạm tội: “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 1, khoản 2 Điều 36 của Bộ luật hình sự; Điểm d khoản 1 Điều 125 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt Bị cáo Hoàng Thị M 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Phú Thọ, nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Phú Thọ trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Buộc bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Miễn miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2020/HS-PT ngày 29/07/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:59/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về