Bản án 59/2020/HNGĐ-ST ngày 23/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 59/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 492/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 963/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 11năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 1039/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15/12/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Minh H; nơi cư trú: Thôn M, xã K, huyện B, tỉnh Hà Giang; có đơn xin xét xử vắng mặt Bị đơn: Anh Phạm Quang Đ; nơi cư trú: Số 38/169 T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 10 năm 2020, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Lê Thị Minh H trình bày: Chị và anh Phạm Quang Đ xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, quận L, thành phố Hải Phòng vào ngày 09/10/2017.

Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận được một thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính cách không hòa hợp nhau, hai bên thường xuyên xảy ra cãi vã, xô xát, tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Do mâu thuẫn căng thẳng nên từ đầu năm 2018 đến nay chị H và con gái đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, hai bên sống ly thân nhau, mỗi người một nơi không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa. Nay chị H xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Quang Đ.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có 01 con chung Phạm Hà V, sinh ngày 09/10/2017. Chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, vấn đề cấp dưỡng nuôi con chị H sẽ tự thỏa thuận với anh Đ, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và triệu tập anh Đ đến Tòa án làm việc vào các ngày 06/11/2020 và 11/11/2020; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho anh Phạm Quang Đ, nhưng anh Đ không đến Tòa án làm việc và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 25/11/2020.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành làm việc với chính quyền địa phương, Đ diện gia đình chị H và anh Đ cho thấy: Chị H và anh Đ xây dựng gia đình với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 2017. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xô xát nên từ năm 2018 đến nay, hai bên đã sống ly thân nhau, chị H và con về sống cùng gia đình nhà ngoại. Nay chị H có đơn xin ly hôn đề nghị Tòa án căn cứ vào mâu thuẫn của chị H và anh Đ cũng như các quy định của pháp luật để giải quyết.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Phạm Hà V, sinh ngày 09/10/2017. Hiện nay cháu V đang học tập, sinh hoạt ổn định cùng với mẹ, nên đề nghị Tòa án xem xét giao cháu V cho người nuôi dưỡng cháu đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho cháu. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con là việc của hai vợ chồng nên Đ diện chính quyền địa phương cũng như gia đình không có ý kiến gì.

Về tài sản chung của chị H và anh Đ: Đ diện gia đình hai bên và Đ diện chính quyền địa phương không có ý kiến gì vì đây là vấn đề cá nhân, riêng tư.

Tại phiên tòa Đ diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân phát biểu ý kiến: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử thấy rằng, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật Về nội dung vụ án: Chị H và anh Đ lấy nhau có đăng ký kết hôn vì vậy là hôn nhân hợp pháp.Trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, đến nay hai bên đã sống ly thân nhau, tình cảm vợ chồng chị H và anh Đ không có khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị HĐXX căn cứ theo quy định tại Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần xử cho chị H được ly hôn anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Hà V, sinh ngày 09/10/2017. Hiện nay cháu V đang ăn ở, sinh hoạt ổn định cùng chị H, chị H có nguyện vọng được nuôi con, quá trình giải quyết vụ án anh Đ không có ý kiến trình bày quan điểm về vấn đề con chung. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử giao con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Chị H không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị HĐXX không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của chị H và anh Đ.

Về tài sản chung: Chị H không có yêu cầu nên đề nghị HĐXX không xem xét.

Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Theo đơn khởi kiện xin ly hôn bị đơn anh Phạm Quang Đ, sinh năm 1993; nơi cư trú: Số 38/169 T, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Bị đơn anh Phạm Quang Đ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất và đã được tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, chị H vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị do vậy HĐXX căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Lê Thị Minh H và anh Phạm Quang Đ.

- Về hôn nhân:

[3] Việc kết hôn giữa chị Lê Thị Minh H và anh Phạm Quang Đ tuân thủ đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình nên là hôn nhân hợp pháp.

[4] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ anh Phạm Quang Đ đến Tòa án làm việc nhưng anh Đ đều không đến để tham gia giải quyết vụ án qua đó cho thấy anh Đ cũng không còn tha thiết níu kéo tình cảm với chị H. Đồng thời qua các tài liệu xác minh thu thập chứng cứ đã xác nhận chị H và anh Đ có mâu thuẫn, hai bên đã sống ly thân nhau từ năm 2018 cho đến nay, không còn sự chia sẻ, quan tâm đến nhau. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh Đ trên thực tế đã không còn, mâu thuẫn thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Bởi vậy, yêu cầu của chị H được ly hôn với anh Đ là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với thực tế và phù hợp với các quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận.

[5] Về nuôi con chung: Chị H và anh Đ có 01 con chung là Phạm Hà V, sinh ngày 09/10/2017. Khi ly hôn chị H có nguyện vọng được nuôi con chung, anh Đ không có ý kiến trình bày quan điểm của mình về vấn đề con chung. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi chị H và anh Đ ly thân nhau, cháu V ăn ở, sinh hoạt và học tập ổn định cùng với với chị H. Vì vậy HĐXX xét thấy việc giao con chung cho chị H nuôi dưỡng chăm sóc là phù hợp với điều kiện thực tế cũng như phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết do vậy HĐXX không đặt ra vấn đề giải quyết.

[7] Về tài sản chung: Chị Lê Thị Minh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

[8] Về án phí: Chị Lê Thị Minh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 51, 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Minh H và anh Phạm Quang Đ.

- Về con chung: Giao con chung Phạm Hà V, sinh ngày 09/10/2017 cho chị Lê Thị Minh H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con thành niên đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Lê Thị Minh H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền trên chị H đã nộp đủ tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0014059 ngày 15 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

- Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Minh H và anh Phạm Quang Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7A và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2020/HNGĐ-ST ngày 23/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

Số hiệu:59/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về