Bản án 59/2020/HNGĐ-ST ngày 08/10/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N – TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 59/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 8/10/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 141/2020/TLST ngày 15/06/2020 về việc “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49 ngày 19/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40 ngày 18/ 9/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ninh Thị N, sinh năm 1980.

Hộ khẩu thường trú: Phố T, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Đa chỉ: Phố T, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1976. Tên gọi khác Nguyễn Đức B.

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Phố P, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Chị N vắng mặt có đơn xin xử vắng mặt. Anh B vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 12/6/2020 và bản tự khai ngày 25/6/2020 chị N trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Ninh Thị N và anh Nguyễn Văn B đăng ký kết hôn tại UBND xã L ngày 15 tháng 03 năm 2000. Sau khi kết hôn vợ chồng chị N về sống chung với nhau tại nhà mẹ đẻ anh B ở phố P, thị trấn N, huyện N. Thời gian vợ chồng sống chung được 6 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau và bất đồng quan điểm nên thường xuyên va chạm, cãi đánh nhau. Đến tháng 11 năm 2019 vợ chồng lại tiếp tục va chạm, mâu thuẫn trầm trọng nên chị N đã bỏ ra ngoài đến phố T, thị trấn N thuê nhà ở, cũng từ đó vợ chồng sống ly thân không quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn không thể hàn gắn được, chị đề nghị Tòa án giải quyêt cho chị được ly hôn với anh B.

2. Về con chung: Chị N, anh B có 02 con chung là:

- Nguyễn Thị T, sinh ngày 25/10/2000, hiện nay đã trưởng thành đủ 18 tuổi.

- Nguyễn Văn H, sinh ngày 17/02/2005, hiện nay đang ở với chị N, chị N xin được nuôi con chung và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

3. Về tài sản chung và công nợ chung: Chị N xác định không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa giải quyết.

Đi với anh B: Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đã gửi các văn bản tố tụng cho các đương sự anh theo quy định của Pháp luật, nhưng anh B vắng mặt không có lý do mặc dù anh đang cư trú tại địa phương.

Tại phiên tòa: Đại diện VKS phát biểu quan điểm về việc tuân theo Pháp luật của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70,7, Bị đơn không thực hiện đúng các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự tại các Điều 70,72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn không có mặt tại phiên tòa mặc dù được triệu tập hợp lệ.Tại phiên tòa anh B vắng mặt lần 2 không có lý do. Tòa án tiến hành xét xử đúng với quy dịnh tại các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối đề nghị như sau, áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Đề nghị xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu khởi kiện của chị Ninh Thị N.

Xử ly hôn giữa chị Ninh Thị N và anh Nguyễn Văn B (Tên gọi khác Nguyễn Đức B).

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn H, sinh ngày 17/02/2005, hiện nay đang ở với chị N cho chị tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

3. Về án phí ly hôn: Chị N phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” giữa chị Ninh Thị N và anh Nguyễn Văn B (tên gọi khác Nguyến Đức B). Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình.

1. Về thủ tục tố tụng: Đối với các đương sự, từ khi thụ lý đơn khởi kiện của chị N, Tòa án nhân dân huyện N đã gửi thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho các đương sự. Chị N đã nhận và chấp hành đầy đủ nghĩa vụ của mình còn anh B vắng mặt không có lý do. Đến ngày 19/8/2020 Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

3. Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh B kết hôn với nhau ngày 23/05/2000 tại UBND xã L, huyện N trên cơ sở tự nguyện, hôn nhân của hai người là hợp pháp. Nguyên nhân do trong cuộc sống vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên cãi nhau, đánh nhau, Đến tháng 11/2019 thì chị N và anh B sống ly thân. Chị N cùng con thuê nhà ở nơi khác, từ đó không quan tâm gì đến nhau nữa.

Đi với anh B anh đã biết việc chị N xin ly hôn anh cũng như việc Tòa án thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị N. Hiện tại anh B vẫn cư trú tại phố P, thị trấn N. Tòa án đã triệu tập anh nhiều lần nhưng anh vắng mặt không có lý do. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Từ thực tế đời sống tình cảm giữa chị N và anh B từ khi sống ly thân, hai người cũng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này thể hiện tình cảm vợ chồng giữa hai người không còn khả năng đoàn tụ. Đã có đủ cơ sở pháp lý để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N. Xử ly hôn giữa chị N và anh B là phù hợp với thực tế và quy định của Pháp luật để hai người sớm ổn định cuộc sống (áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

4. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Xét thực tế hiện nay con chung là Nguyễn Thị T đã trưởng thành tự lập nên không phải giải quyết, còn cháu Nguyễn Văn H hiện nay chưa đủ 18 tuổi ở với chị N từ khi chị N và anh B sống ly thân cháu H đã ổn định, cháu H cũng có nguyện vọng ở với chị N nên cần giao cháu H cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. (Áp dụng Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014). Chấp nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Vì vậy anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N.

5. Về tài sản chung và công nợ chung: Từ kết quả xác minh ngày 9/7/2020 tại Ủy ban nhân dân thị trấn N thì chị N và anh B không có tài sản là nhà đất ở đại phương các tài sản khác không nắm được. Về công nợ chung chị N và anh B không nợ tập thể một khoản nào. Từ yêu cầu của chị N không yêu cầu giải quyết về tài sản chung về công nợ chung vì vậy Hội đồng xét xử không giiar quyết về tài sản chung và công nợ chung.

6.Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị N phải nộp theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Ninh Thị N và anh Nguyễn Văn B (tên gọi khác Nguyễn Đức B).

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giao cháu Nguyễn Văn H, sinh ngày 17/02/2005, hiện nay đang ở với chị N cho chị tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung, về công nợ chung: Không giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị N phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn. Chị N đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai thu số: 0000530 ngày 15 tháng 6 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

Án xử công khai sơ thẩm chị N và anh B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2020/HNGĐ-ST ngày 08/10/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:59/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về