Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 59/2019/HNGĐ -ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T H, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 184/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 60/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 51/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08/10/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T, sinh năm 1975.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1974

Đều nơi cư trú: Thôn V N, xã N H, huyện T H, tỉnh Thái Bình.

(Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt tại phiên Tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 17/7/2019 cũng như tại bản tự khai nguyên đơn chị Vũ Thị T trình bày: Chị và anh Phạm Văn T kết hôn với nhau ngày 12/11/1995 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã N H, huyện T H, tỉnh Thái Bình. Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T không tu chí làm ăn và cũng không có trách nhiệm và nghĩa vụ gì với mẹ con chị và vợ chồng chị sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Chị xác định không còn tình cảm với anh T vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên chị xin được ly hôn anh Phạm Văn T. Về con chung: Vợ chồng chị có ba con chung là Phạm Thành N, sinh ngày 01/8/1996, Phạm Quang A , sinh ngày 08/01/2004 và Phạm Thị Thanh M, sinh ngày 17/01/2006.Quan điểm của chị đối với con N đã trưởng thành nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị xin nuôi con Phạm Thị Thanh M và đồng ý để anh T nuôi con Phạm Quang A . Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Về tài sản và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Phạm Thị Thìn là mẹ đẻ của anh T trình bày: Lý do mâu thuẫn do vợ chồng anh T có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và vợ chồng đã sống ly thân. Quan điểm của bà mong muốn vợ chồng anh T về đoàn tụ để nuôi dạy con chung.

Bị đơn là anh Phạm Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc Tòa án thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên Tòa nhưng anh T cố tình không đến Tòa án.

Tại phiên Tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T H phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T H, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị T được ly hôn anh Phạm Văn T. Về quan hệ con chung: Xử giao con Phạm Thị Thanh M cho chị Vũ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Xử giao con Phạm Quang Anh cho anh Phạm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với con Phạm Thành N đã trưởng thành nên không phải giải quyết. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Không phải giải quyết. Về án phí: Chị Vũ Thị T phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà.

Về thủ tục tố tụng: Chị Vũ Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử theo trình tự vắng mặt của nguyên đơn. Anh Phạm Văn T là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên căn cứ vào khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh Phạm Văn T.

Về nội dung vụ án:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Phạm Văn T kết hôn với nhau có đăng ký ngày 12/11/1995, tại Ủy ban nhân dân xã N H, huyện T H, tỉnh Thái Bình đây là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống giữa chị T và anh T không tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ nhau cùng nhau chia sẻ thực hiện công việc trong gia đình. Giữa chị T và anh T đều bất đồng về suy nghĩ cũng như lối sống, hành động đều trái ngược nhau, do đó hai bên không quan tâm, không có trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Anh Phạm Văn T không đến Tòa án tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, không có mặt tại phiên Tòa chứng tỏ anh T bỏ mặc, không quan tâm đến chị T, thể hiện không thiện chí trong việc cải thiện tình trạng hôn nhân đang mâu thuẫn trong khi chị T xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh T, kiên quyết xin ly hôn anh T. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị T, xử cho chị T được ly hôn anh T.

[2]. Về quan hệ con chung: Chị T và anh T ba con chung là Phạm Thành N, sinh ngày 01/8/1996, Phạm Quang Anh, sinh ngày 08/01/2004 và Phạm Thị Thanh M, sinh ngày 17/01/2006. Quan điểm của chị T xin nuôi con M và đồng ý để anhT nuôi con Phạm Quang A, hơn nữa xét thấy cháu M đang ở với chị T và nguyện vọng của cháu M muốn ở với mẹ. Vì vậy, cần xử giao con Phạm Thị Thanh M cho chị Vũ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy nguyện vọng của cháu Phạm Quang Anh muốn ở với anh T hơn nữa hiện nay anh T đang nuôi cháu Phạm Quang Anh nên cần giao cháu Phạm Quang A cho anh Phạm Văn T nuôi dưỡng là phù hợp. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Đối với con Phạm Thành N đã trưởng thành nên Tòa án không giải quyết.

[3]. Về quan hệ tài sản và nợ chung chị T khai: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh T không có văn bản nào gửi Tòa thể hiện quan điểm của mình về phần tài sản và không có lời khai về phần tài sản, không có mặt tại phiên tiếp cận chứng cứ công khai và hòa giải, tại phiên Tòa. Do đó phần tài sản Tòa án không giải quyết. Khi nào các đương sự có yêu cầu chia tài sản phải thực hiện thủ tục khởi kiện theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án sẽ thụ lý giải quyết bằng một vụ án khác.

[4]. Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5]. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị T và anh Phạm Văn T có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56, điều 81, điều 82, điều 83, điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 1 điều 277, khoản 3 điều 228, điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016 án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho Chị Vũ Thị T được ly hôn anh Phạm Văn T.

2. Về quan hệ con chung: Chị Vũ Thị T và anh Phạm Văn T có ba con chung là Phạm Thành N, sinh ngày 01/8/1996, Phạm Quang A , sinh ngày 08/01/2004 và Phạm Thị Thanh M, sinh ngày 17/01/2006. Xử giao con Phạm Quang Anh, sinh ngày 08/01/2004 cho anh Phạm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. Xử giao con Phạm Thị Thanh M, sinh ngày 17/01/2006 cho chị Vũ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Đối với con Phạm Thành N, sinh ngày 01/8/1996 đã trưởng thành nên Tòa án không giải quyết. Anh T, chị T có quyền thăm nom con chung. Anh T và chị T có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.

3. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Tòa án không giải quyết về phần tài sản. Khi nào chị T và anh T có yêu cầu chia tài sản phải thực hiện thủ tục khởi kiện theo quy đinh chung của pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết bằng vụ án khác.

4. Về án phí: Chị Vũ Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 0009177 ngày 22 tháng 7 năm 2019 của chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

Chuyển số tiền chị T đã nộp tạm ứng 300.000 đồng sang tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị T và anh Phạm Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:59/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về