Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 59/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 251/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2019, về ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thạch Thị Ngọc D;

Địa chỉ cư trú: số nhà 142, đường L, khóm 4, Phường X, thành phố s, tỉnh Sóc Trăng, (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Trần Hoàng D1;

Địa chỉ cư trú: Ấp P, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 16-9-2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Thạch Thị Ngọc D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Hoàng D1 tổ chức lễ cưới với nhau theo phong tục truyền thống vào cuối năm 2010, sau đó có đến Ủy ban nhân dân Phường X, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 72 ngày 20-4-2011. Hôn nhân của vợ chồng chị là hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc. Sau khi đám cưới, vợ chồng chị chung sống ở nhà mẹ ruột của chị, ở số 142, đường L, khóm 4, Phường X, thành phố S và chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh D1 mê cờ bạc, không lo cho gia đình, vợ con, lại có hành vi nhục mạ, xúc phạm chị, chị đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh D1 vẫn không thay đổi và mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn được nên vợ chồng không còn sống chung từ đầu năm 2019 đến nay. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh D1.

Về con chung: Vợ chồng chị chung sống với nhau có được 02 đứa con chung tên là Trần Huỳnh N, sinh ngày 07-3-2011 và Trần Quỳnh M, sinh ngày 13-02-2016, đều đang sống chung với chị và mẹ chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi các con và không yêu cầu anh D1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng chị không có nên chị không yêu cầu giải quyết.

Đối với bị đơn anh Trần Hoàng D1:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án cho anh biết nhưng anh không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị D. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ anh để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh vắng mặt không có lý do và chị D yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải nữa. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, sau đó đã thông báo cho anh biết kết quả phiên họp. Đồng thời, Tòa án cũng ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, anh D1 cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm:

Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đều thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, còn bị đơn luôn vắng mặt không có lý do khi Tòa án triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như phiên tòa sơ thẩm, là không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của chị D, cho chị ly hôn với anh D1, giao các con chung cho chị tiếp tục nuôi dưỡng; còn về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung, chị D không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Trần Hoàng D1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử được quyền tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh D1.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị D, anh D1 kết hôn với nhau là trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc, được Ủy ban nhân dân Phường X, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 72 ngày 20-4-2011, nên quan hệ hôn nhân giữa hai người là hợp pháp. Khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn ”. Như vậy, chị D có quyền đơn phương yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh D1.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị D, Hội đồng xét xử nhận thấy, sau khi đám cưới vào cuối năm 2010, chị D và anh D1 chung sống hạnh phúc được một thời gian, đến năm 2013 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do hai người bất đồng quan điểm trong cuộc sống, mặt khác anh D1 không quan tâm chăm sóc vợ, con và gia đình, không tôn trọng nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên không còn sống chung với nhau từ đầu năm 2019. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã mời hai bên hòa giải, động viên hàn gắn tình cảm, đoàn tụ với nhau, nhưng anh D1 không đến và chị D vẫn cương quyết xin ly hôn, đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nữa. Như vậy, trong quá trình chung sống, chị D và anh D1 đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng, đó là không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không sống chung với nhau; làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nếu tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân này thì mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sng chung không th kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D, cho chị ly hôn với anh D1.

[4] Về con chung: Chị Diễm và anh Dân có 02 đứa con chung là cháu Trần Huỳnh N, sinh ngày 07-3-2011 và cháu Trần Quỳnh M, sinh ngày 13-02-2016. Khi ly hôn, chị D yêu cầu được nuôi các con. Xét yêu cầu này, Hội đồng xét xử thấy, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền, nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đi với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án giải quyết giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con ”. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay, chị D và anh D1 không có gặp nhau và cũng không có thỏa thuận với nhau về việc nuôi con chung sau khi ly hôn nên do Tòa án giải quyết. Hiện nay, cháu N và cháu M đều sống chung với chị D và mẹ chị D, do chị chăm sóc, nuôi dưỡng; anh D1 không có tới lui thăm nom, chăm sóc con chung; mặt khác, cháu N đã trên 07 tuổi, nguyện vọng của cháu là cũng muốn tiếp tục ở với chị D, còn cháu M thì chưa đủ 07 tuổi. Do đó, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của cháu N và M, tránh xáo trộn cuộc sống hiện tại, làm ảnh hưởng đến tâm sinh lý của hai cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị D, quyết định giao cả hai cháu cho chị tiếp tục nuôi dưỡng.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Đáng lẽ ra, anh D1 là người không trực tiếp nuôi con thì phải cấp dưỡng nuôi con, nhưng chị D không yêu cầu. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Ngoài ra, khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 còn quy định: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở”. Như vậy, anh D1 là người không trực tiếp nuôi con nên có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Chị D không có yêu cầu và anh D1 cũng không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của chị D là có căn cứ.

[9] Về án phí sơ thẩm: Chị D là người xin ly hôn nên theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 2 và khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Thạch Thị Ngọc D và anh Trần Hoàng D1.

2. Về con chung:

- Giao cháu Trần Huỳnh N, sinh ngày 07 tháng 3 năm 2011 và Trần Quỳnh M, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2016 cho chị Thạch Thị Ngọc D nuôi dưỡng.

- Anh Trần Hoàng D1 không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Anh Trần Hoàng D1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Thạch Thị Ngọc D và anh Trần Hoàng D1 không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Thạch Thị Ngọc D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân; được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009235 ngày 16 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng và như vậy chị đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:59/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về