Bản án 59/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 59/2018/HS-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19/11/2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Ninh,tỉnh Phú Thọ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 62/2018/TLST-HS ngày 07/11/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2018/QĐXXST– HS ngày 09/11/2018 đối với bị cáo:

Lê Hồng L; Sinh năm: 1982; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu 4, xã AĐ, huyện PN, tỉnh PT; Trình độ văn hóa: Không đi học; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Lê Minh Th; Con bà: Nguyễn Thị T; Vợ: Trần Thị G, SN 1988; Con:

01 con (sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/7/2018. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Đỗ Văn H, SN 1991;

Địa chỉ: Khu 2, xã VP, huyện PN, tỉnh PT. Hôm nay, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 15/07/2018 Nguyễn Văn H1 đến nhà Đỗ Văn H, SN 1991, địa chỉ khu 2, xã VP, huyện PN, tỉnh PT chơi và rủ H góp tiền đi mua ma túy về sử dụng. H1 nói có 200.000 đồng còn H có 100.000 đồng góp đưa cho H1 để mua ma túy. Sau đó H gọi điện thoại cho Lê Hồng L, sinh năm: 1982, HKTTtại: Khu 4, xã AĐ, PN, PT để hỏi mua ma túy nhưng điện thoại của H không cònđủ tiền trong tài khoản để thực hiện cuộc gọi, thấy vậy H1 đã bảo H cho H1 số điện thoại của L và H1 gọi điện thoại cho L để hỏi mua 01(một) gói ma túy với giá 300.000 đồng. Lê Hồng L đồng ý và hẹn H1 đến khu vực nghĩa trang thuộc khu 4, xã AĐ, PN, PT để giao dịch mua bán ma túy. Khi đến địa điểm hẹn, L thấy H1 và H đang đứng chờ tại đó. Gặp nhau H1 lấy tiền đưa cho L và nói bán cho 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) ma túy, L cầm tiền rồi đưa lại cho H1 01 (một) túi ni lon màu trắng bên trong có chứa các chất rắn dạng tinh thể màu trắng (đó là ma túy loại Methamphetamine). Sau đó H và H1 đi xe máy đến khu vực sân chọi trâu thuộc khu 13, xã PN, PN, PT để cùng nhau sử dụng ma túy. Đến khoảng13 giờ 05 phút cùng ngày, do H1 có việc nên đi về trước còn H tiếp tục ở lại sử dụng ma túy thì Công an huyện Phù Ninh kiểm tra phát hiện và lập biên bản bản vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.Vật chứng thu giữ: 01 (một) túi nilon màu trắng, miệng túi có khuy bấm bịt kín và có viền kẻ màu xanh, kích thước 1,5x2 cm; 01 (một) chai nhựa màu trắng trên nắp chai có gắn 01 cóng thủy tinh và 01 đoạn ống nhựa màu trắng; 01 (một) bật lửa gas màu đỏ; 01 (một) vé lô tô của Công ty TNHH MTV xổ số kiến thiết Phú Thọ mở thưởng ngày 15/7/2018 với số đánh là 5489.

Nguồn gốc ma túy Hùng sử dụng là do H góp tiền cùng Nguyễn Xuân H1- sinh năm 1991, Nơi ĐKNKTT ở: Tổ 18, Khu 2, Phường DL, TP. VT, PT để mua của Lê Hồng L sinh năm 1982, ở khu 4, Xã AĐ, PN, PT với giá 300.000 đồng trong ngày 15/07/2018.

Cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Ninh đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Hồng L về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình thi hành lệnh cơ quan điều tra đã thu giữ trên người Lợi 01 (một) túi nilon màu trắng miệng túi có khuy bấm bịt kín bên trong có chứa các chất rắn dạng tinh thể màu trắng; Tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 460.000 đồng (Bốn trăm sáu mươi nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobell loại M118 màu đen đã qua sử dụng gắn kèm thẻ sim 0986793507. Đồng thời cơ quan CSĐT đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của L. Quá trình khám xét đã thu giữ: 01(một) chứng minh thư nhân dân số 131583650 do công an tỉnh Phú Thọ cấp ngày 16/12/2017 mang tên Lê Hồng L. L khai số ma tuý trên nhằm mục đích để bán và đang chuẩn bị đem bán cho H1 thì bị bắt.

Ngày 16/07/2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Ninh đã ra Quyết định số 126 trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ giám định01 túi nilon bên trong có chứa các chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Hồng L. Ngày 18/07/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận giám định số 769/KLGĐ, kết luận chất rắn dạng tinh thể màu trắng chứa trong 01 túi nilon màu trắng, có khuy bấm bịt kín gửi đến giám định là ma túy có khối lượng 0,085 gam, loại Methamphetamine. (Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, số thứ tự 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ).

Ngày 20/7/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Ninh đã ra Quyết định khởi tố vụ án, Khởi tố bị can và Lệnh tạm giam đối với Lê Hồng L về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Ngoài hành vi phạm tội nêu trên, quá trình điều tra còn xác định:

Khoảng 15 giờ ngày 13/07/2018, khi L đang ở nhà Hoàng Minh T thì Đỗ Văn H gọi điện thoại cho L hỏi mua một gói ma túy với giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). L đồng ý và hẹn H đến khu vực nghĩa trang xã AĐ - PN - PT để giao dịch mua bán ma túy. Khi L đến địa điểm hẹn thấy H và H1n đang đứng chờ tại đó. Gặp nhau H1 lấy tiền đưa cho L và nói bán cho 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) ma túy, L cầm tiền rồi đưa lại cho H1 01 (một) túi ni lon màu trắng bên trong là ma túy. Sau đó H1 và H đã sử dụng hết số ma túy đó cho bản thân.

Về nguồn gốc số ma túy đá thu giữ trên người của L ngày 15/7/2018 và ma túy L bán cho H1 vào ngày 13/7/2018 và ngày 15/7/2018, Lợi khai: Do có quen biết với Hoàng Minh T sinh năm: 1983, nơi ĐKHKTT: Khu 9, xã AĐ, huyện PN, tỉnh PT. T có ma túy đá và thỏa thuận với L là L đi bán ma túy cho Tuấn thì T cho L tiền và sử dụng ma túy đá cùng.

Tại cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Ninh, Hoàng Minh T khai nhận ngày 13/7/2018 và 15/7/2018 L có đến nhà T chơi. Tuy nhiên T không đưa ma túy đá cho L để mang đi bán cho H1 như L đã khai. Mặt khác, L khai khi T đưa ma túy cho L chỉ có T và L biết nên không đủ căn cứ để xác định T đưa ma túy cho L đi bán.

Quá trình điều tra Lê Hồng L đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như trên, lời khai của bị can (BL 84 đến 109) phù hợp với tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Tại Cáo trạng số 62/CT - VKS ngày 07/11/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Ninh đã truy tố Lê Hồng L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, sau khi phát biểu quan điểm luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Ninh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Hồng L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 điều 251, điểm s khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015 phạt bị cáo Lê Hồng Lợi từ 07 năm tù giam đến 08 năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2018.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Trong các ngày 13/7/2018 và 15/7/2018 tại khu vực nghĩa trang thuộc khu 4, xã AĐ, huyện PN, tỉnh PT, Lê Hồng L đã có hành vi bán ma túy (đá) trái phép cho Nguyễn Xuân H1 với tổng số tiền là 600.000 đồng. Ngoài ra trong ngày 15/7/2018, Lê Hồng L còn có hành vi tàng trữ trái phép 0.085g Methamphetamien nhằm mục đích để bán nhưng chưa kịp bán thì bị bắt.

[2] Hành vi bán trái phép chất ma túy (đá) của Lê Hồng L đã bị VKS Nhân dân huyện Phù Ninh truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 251 BLHS năm 2015 là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng nghiện. Đồng thời khi khám người bị cáo cơ quan điều tra còn phát hiện bị cáo tàng trữ 0.085g Methamphetamine với mục đích để bán. Do đó, hành vi bán ma túy trái phép của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo:

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo khôngphải chịu tình tiết tăng nặng nào.Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hômnay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét và cho các bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên và xét hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng. Bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần. Mặc dù nhận thức được việc bán ma túy trái phép của mình là hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội nhưng để kiếm lời và để thỏa mãn nhu cần sử dụng ma túy của bản thân (được T cho tiền và cho sử dụng ma túy đá cùng khi bán ma túy cho T) nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Do đó, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để các bị cáo có cơ hội nhận thức được hành vi phạm tội của mình và sửa chữa những sai lầm của bản thân, cải tạo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào biên bản xác minh tài sản đối với bị cáo của Cơ quan điều tra đã xác định hiện bị cáo đang sống cùng bố mẹ đẻ và không có tài sản gì riêng. Do đó Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [7] Về nguồn gốc số ma túy đá thu giữ trên người của bị cáo ngày 15/7/2018 và ma túy bị cáo bán cho H1 vào ngày 13/7/2018 và ngày 15/7/2018: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai: Do có quen biết với Hoàng Minh T sinh năm: 1983, nơi ĐKHKTT: Khu 9, xã AĐ, PN, PT nên T có thỏa thuận với L: Nếu có ai hỏi mua ma túy thì nói với T để T đưa ma túy cho L mang đi bán sau đó T sẽ cho L tiền và cho sử dụng ma túy đá cùng. Tuy nhiên, quá trình điều tra T không thừa nhận đã đưa ma túy cho L để L mang bán cho H1. Mặt khác, bị cáo khai khi T đưa ma túy cho bị cáo thì chỉ có T và bị cáo ngoài ra không có ai biết nên không đủ căn cứ để xử lý đối với Hoàng Minh T xét thấy là phù hợp.

[8] Đối với Đỗ Văn H và Nguyễn Văn H1 đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện Phù Ninh đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo khoản 1 điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ: Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực ANTT, ATXH xét thấy là phù hợp.

[9] Số ma túy L tàng trữ trên người khi thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, L khai nhận tàng trữ đế bán và đang chuẩn bị mang đi bán cho H1 thì bị bắt. Nhưng H1 không thừa nhận việc đã liên hệ để mua gói ma túy đó của L. Do vậy, không có căn cứ để làm rõ và xử lý H1.

[10] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 460.000 đồng (Bốn trăm sáu mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai trong tổng số tiền đó có 300.000 đồng là tiền bị cáo vừa bán ma túy cho H1 nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước. Số tiền 160.000 đồng còn lại là tiền do bị cáo lao động mà có nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với số tiền 300.000 đồng bị cáo bán ma túy cho H1 ngày 13/7/2018: Bị cáo khai số tiền này bị cáo đã đưa lại cho T và được T cho 70.000 đồng. Tuy nhiên, quá trình điều tra không làm rõ được việc T có đưa ma túy cho L mang đi bán không nên cũng chưa có căn cứ để khẳng định T đã cầm số tiền bán ma túy này. Do đó, cần truy thu của L số tiền 300.000 đồng bán ma túy ngày 13/7/2018 để sung Ngân sách Nhà nước.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobell loại M118 màu đen: Bị cáo khai sử dụng điện thoại di động này để liên lạc với Hiền trong việc mua bán ma túy do đó cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

- Đối với: 0,040gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định đựng trong 01 (một) bì giấy niêm phong dán kín số 769/KLGĐ ngày 18/07/2018 của Phòng KTHS Công an tỉnh Phú Thọ; 01 (một) túi nilon màu trắng, miệng túi có khuy bấm bịt kín và có viền kẻ màu xanh, kích thước 1,5x2 cm; 01 (một) chai nhựa màu trắng trên nắp chai nhựa có gắn 01 cóng thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng; 01 (một) bật lửa gas màu đỏ là vật chứng của vụ án và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) vé lô tô của Công ty TNHH MTV xổ số kiến thiết PT mở thưởng ngày 15/7/2018 với số đánh là 5489 thu giữ của Đỗ Văn H trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh H do không liên quan đến vụ án xét thấy là phù hợp nên cần xác nhận.

- Đối với 01 CMND số 131583650 do Công an tỉnh PT cấp ngày 16/12/2017 mang tên Lê Hồng L là giấy tờ tùy thân của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

[11] Tại phiên tòa, kiểm sát viên đã trình bày luận tội đối với bị cáo, đề nghị HĐXX kết tội bị cáo như Cáo trạng đã truy tố, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo và đề xuất về xử lý vật chứng. Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án và diễn biến, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và cũng phù hợp với các quy định của pháp luật vì vậy được chấp nhận.

[12] Trong quá trình điều tra vụ án, các quyết định và các hành vi tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tất cả các Quyết định tố tụng trong vụ án đều được lập, giao nhận cho những người tham gia tố tụng theo đúng trình tự mà pháp luật quy định. Các tài liệu, chứng cứ đã thu thập đều phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án, phù hợp với diễn biến của phiên tòa và có đủ cơ sở để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo.

[13] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Hồng L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt: Lê Hồng L: 07 (Bảy) năm tù giam.

Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2018.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Căn cứ vào: Khoản 1 điều 47 BLHS năm 2015; khoản 2,3 điều 106; khoản 2 điều 136, khoản 1 điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý vả sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

* Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu của bị để sung vào Ngân sách nhà nước: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại di động Mobell loại M118 màu đen đã qua sử dụng gắn kèm thẻ sim 0986793507;

- Tịch thu tiêu hủy: 0,040gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định đựng trong 01 (một) bì giấy niêm phong dán kín số 769/KLGĐ ngày 18/07/2018 của Phòng KTHS Công an tỉnh Phú Thọ; 01 (một) túi nilon màu trắng, miệng túi có khuy bấm bịt kín và có viền kẻ màu xanh, kích thước 1,5x2 cm; 01 (một) chai nhựa màu trắng trên nắp chai nhựa có gắn 01 cóng thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng; 01 (một) bật lửa gas màu đỏ.

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) CMND số 131583650 do Công an tỉnh Phú Thọ cấp ngày 16/12/2017 mang tên Lê Hồng Lợi và số tiền 160.000 đồng. Tạm giữ số tiền 160.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/11/2018)

- Truy thu của bị cáo số tiền 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

- Xác nhận cơ quan điều tra Công an huyện Phù Ninh đã trả lại cho anh Đỗ Văn Hùng 01 (một) vé lô tô của Công ty TNHH MTV xổ số kiến thiết PT mở thưởng ngày 15/7/2018 có ghi số 5489.(Theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài sản ngày 08/9/2018).

* Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo có mặt được quyền kháng cáo để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi va nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Ninh - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về