TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 59/2018/HS-ST NGÀY 17/04/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Trong ngày 17 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Củ Chi – Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2018/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo: Trần Nhựt T sinh năm: 1998 tại: Tỉnh Tây Ninh; nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Ấp R, xã B, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Long N và bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ;
Tiền án: Không. Tiền sư: Không. Nhân thân:
Ngày 15/10/2012, bị Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh đưa vào cơ sở giáo dục trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng có hành vi trộm cắp tài sản.
Ngày 27/11/2015, bị Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Tây Ninh xử phạt 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Ngày 24/11/2017, bị Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Tây Ninh xử phạt 04 năm tù về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Bị hại: Bà Phan Thị Hồng P, sinh năm 1996
Địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện H, tỉnh Long An. (Vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1968
Địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện H, tỉnh Long An. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng tháng 5/2017, Trần Nhựt T sử dụng số điện thoại 0925.042.846 lên mạng xã hội Zalo đăng ký với nickname “Bi Láo”, T nhắn tin kết bạn và nói chuyện với Phan Thị Hồng P. Sau nhiều lần T trò chuyện với Phan Thị Hồng P, Trần Nhựt T hẹn Phúc vào khoảng 09 giờ ngày 06/6/2017 gặp nhau cùng đi ăn tại huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Sau khi ăn xong, Trần Nhựt T chở Phan Thị Hồng P về quán nước trước phòng trọ số 07 của Trần Nhựt T tại đường Nguyễn Văn H, thuộc ấp T, xã H, huyện C. Trần Nhựt T nói dối với Phan Thị Hồng P cho mượn xe máy biển số 62P1-308.58 để đi rước bạn nhằm chiếm đoạt chiếc xe máy biển số 62P1-308.58, Phan Thị Hồng P đồng ý đưa xe cho Trần Nhựt T, Phan Thị Hồng P ngồi ở hành lang phòng trọ số 07 chờ. Trần Nhựt T sau khi mượn được xe trên liền điều khiển xe sang Campuchia cầm số tiền 4.500.000 đồng, Trần Nhựt T lấy số tiền trên đánh bài thua hết. Sau đó, Trần Nhựt T bị Công an Tây Ninh bắt trong vụ án khác, qua điều tra Trần Nhựt T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 04/Ctr-KVS-HS ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố Trần Nhựt T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Tại phiên Toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 139, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Trần Nhựt T mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Vật chứng vụ án: Chưa thu hồi được.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị xử lý theo quy định.
Tại phiên toà, bị cáo trình bày: Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố là đúng. Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu và không có ý kiến gì, đồng thời đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại.
Đối với người bị hại Phan Thị Hồng P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị K có đơn xin vắng mặt.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã ăn năn, hối cải về lỗi lầm của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà, bị cáo Trần Nhựt T khai nhận vào khoảng tháng 5/2017, tại ấp T, xã H, huyện C, bị cáo đã nói dối với chị Phan Thị Hồng P cho mượn xe máy biển số 62P1-308.58 với mục đích chiếm đoạt chiếc xe máy sang Campuchia cầm cố lấy số tiền 4.500.000 để đánh bạc.
Căn cứ kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày 14/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản Uỷ ban nhân dân huyện Củ Chi kết luận: 01 (một) chiếc xe gắn máy hiệu Honda Future FI màu nâu-vàng-đen, biển số 62P1-308.58 có số máy: C54E-1019861, số khung: 34XDY-007701 trị giá 19.488.000 (Mười chín triệu bốn trăm tám mươi tám nghìn) đồng.
Do đó bị cáo Trần Nhựt T đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Bản cáo trạng số 04/Ctr-KVS-HS ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố bị cáo Trần Nhựt T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái, phạm pháp, thế nhưng bị cáo vẫn thực hiện, chỉ với mục đích là cần có tiền tiêu xài cá nhân. Do vậy, cần có mức hình phạt nghiêm, áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới đủ tác dụng trừng trị, răn đe, giáo dục bị cáo trong đấu tranh, phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự;
Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể:
Ngày 15/10/2012, bị Ủy ban nhân dân huyện T đưa vào cơ sở giáo dục trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng;
Ngày 27/11/2015, bị Tòa án nhân dân Thành phố N xử phạt 15 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
Ngày 24/11/2017, Trần Nhựt T bị Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 04 năm tù về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 154/2017/HSST ngày 24/11/2017 của Toà án nhân dân Thành phố N, tỉnh Tây Ninh.
Do vậy, Hội đồng xét xử cần cân nhắc khi lượng hình phạt cho bị cáo.
[2] Vật chứng vụ án: Là chiếc xe gắn máy hiệu Honda Future FI màu nâu- vàng-đen, biển số 62P1-308.58 có số máy: C54E-1019861, số khung: 34XDY-007701 hiện chưa thu hồi được. Khi nào thu hồi được sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật.
[3] Trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Phan Thị Hồng P vắng mặt tại phiên toà, tuy nhiên theo hồ sơ thể hiện bà Phan Thị Hồng P yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị của chiếc xe gắn máy hiệu Honda Future FI màu nâu-vàng-đen, biển số 62P1-308.58 có số máy: C54E-1019861, số khung: 34XDY-007701 số tiền là 30.000.000đồng.
Tai phiên toà, bị cáo tự nguyện đồng ý bồi thường số tiền 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng theo yêu cầu của bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy sự tự nguyện của bị cáo không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nên ghi nhận.
[4] Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy đinh tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật Phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trần Nhựt T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 139, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 50, Điều 51 của Bộ luật hình sự, phạt bị cáo Trần Nhựt T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt của Bản án 154/2017/HSST ngày 24/11/2017 của Toà án nhân dân Thành phố N, tỉnh Tây Ninh, buộc bị cáo Trần Nhựt T phải chấp hành là 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng, thời hạn tù tính từ ngày 14/6/2017.
Căn cứ vào Điều 42 của Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009; các Điều 357, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, buộc bị cáo Trần nhựt T phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Phan Thị Hồng P số tiền 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng; thi hành một lần ngay khi án phát sinh hiệu lực pháp luật, tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Trường hợp bị cáo chậm thi hành số tiền trên cho Phan Thị Hồng P thì bị cáo phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thoả thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thoả thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, buộc bị cáo Trần Nhựt T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Căn cứ vào Điều 234 của Bộ luật tố tụng hình sự, thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa co quyên kháng cáo trong thời han là mười lăm ngay tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Bản án 59/2018/HS-ST ngày 17/04/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 59/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về