Bản án 59/2018/HNGĐ-ST ngày 28/09/2018 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 59/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2018 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 27 và 28 tháng 9 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 92/2018/TLST- HNGĐ, ngày 16 tháng 4 năm 2018 về việc: “ Xin ly hôn, nuôi con chung ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2018/QĐST- HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1984 (Có mặt);

Nơi ĐKHKTT: Khu phố C, thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. Chỗ ở hiện nay: Khu phố E, thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Bùi Thanh H, sinh năm 1975 ( Vắng mặt). Địa chỉ: Khu phố C, thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/3/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phạm Thị T trình bày và yêu cầu như sau:

Chị Phạm Thị T và anh Bùi Thanh H chung sống với nhau vào năm 2002, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, có làm giấy đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. Quá trình vợ chồng chung sống với nhau đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H thường xuyên uống rượu, không lo làm ăn, vợ chồng thường xuyên cự cãi qua lại với nhau, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng đã ly thân từ tháng 02/2018 cho đến nay.

Về con chung: Chị T xác định chị và anh H có 01 người con chung tên Bùi Thị Phương A , sinh ngày 26/01/2003 hiện đang sống với chị, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Chị T xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra chị T không trình bày và yêu cầu gì thêm.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh Bùi Thanh H có ý kiến như sau:

Anh H thống nhất với lời trình bày của chị T : Về quan hệ hôn nhân là thời gian chung sống với nhau và năm 2002, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, vào ngày 18/4/2002 vợ chồng anh có làm giấy đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Thứ Ba, huyện An Biên.

Đối với mâu thuẫn của vợ chồng thì anh H cho rằng mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm sống, anh không có uống rượu như chị T trình bày, vợ chồng đã ly thân từ tháng 02/2018 cho đến nay, anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị T,do anh còn thương vợ thương con.

Về con chung: Có 01 người con chung tên Bùi Thị Phương A, sinh ngày 26/01/2003 hiện đang sống với chị T, việc cháu Phương A có nguyện vọng sống với chị T thì anh không có ý kiến hay yêu cầu gì.

Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Anh H xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong văn bản trình bày ý kiến gửi cho Tòa án, cháu Bùi Thị Phương A trình bày: Cháu có nguyện vọng xin được ở với mẹ là chị T sau khi cha mẹ ly hôn.

Chứng cứ nguyên đơn cung cấp: 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 sổ hộ khẩu (bản photo); 01 bản sao trích lục kết hôn ; 01 giấy khai sinh tên Bùi Thị Phương A (bản sao); Đơn xin xác nhận tình trạng cư trú của đương sự (bản chính).

Những nội dung thống nhất và không thống nhất giữa các đương sự: Về hôn nhân: Chị T xin được ly hôn, anh H không đồng ý ly hôn;

Về con chung: Chị T và anh H đều xác định có 01 người con chung là Bùi Thị Phương A, sinh ngày 26/01/2003 hiện đang sống chung với chị T.

Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Chị T và anh H đều xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh từ chính quyền địa phương cho biết: Mâu thuẫn giữa vợ chồng chị T và anh H là do vợ chồng hay rầy rà cự cãi, anh H hay đi nhậu, vợ chồng có 01 đứa con gái tên Bùi Thị Phương A hiện đang sống chung với chị T.

Tại phiên tòa hôm nay: Chị T giữ nguyên yêu cầu, ý kiến như đã trình bày. Anh H vắng mặt nên không có ý kiến yêu cầu gì.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang tham gia phiên tòa phát biểu: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đảm bảo đúng theo quy định. Đề nghị áp dụng Điều 56, Điều 81 của Luật hôn nhân gia đình, xử cho chị T được ly hôn với anh Hoàng; giao người con tên Bùi Thị Phương A cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung không có yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do bị đơn anh H có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên theo quy định tại Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Sau khi vụ án được thụ lý, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng cho các đương sự, tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định, tiến hành lập biên bản công khai chứng cứ và hòa giải đoàn tụ nhưng không thành, các đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Đối với bị đơn anh Bùi Thanh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử thống nhất tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh H.

[3] Về nội dung vụ án: Chị T xin ly hôn với anh H và yêu cầu giải quyết vấn đề con chung nên quan hệ pháp luật của vụ án được xác định là “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Xét yêu cầu ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử xét thấy: Chị T và anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, anh chị thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định tại Uỷ ban nhân dân thị trấn T, huyện A nên hôn nhân giữa chị Phạm Thị T và anh Bùi Thanh H là hợp pháp.

Qua lời trình bày của chị T tại phiên tòa và trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như kết quả xác minh từ chính quyền địa phương có cơ sở nhận định mâu thuẫn vợ chồng của anh, chị đã thực sự trầm trọng, vợ chồng thường xuyên xảy ra cự cãi bất đồng, anh H thường xuyên uống rượu không lo làm ăn, từ đó làm cho gia đình không hạnh phúc và mục đích của hôn nhân không đạt được. Hiện nay anh chị đã tự ly thân với nhau từ tháng 02 năm 2018 cho đến nay, trong quá trình giải quyết tại Tòa án mặc dù đã được hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Do đó căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu của chị T, cho chị T được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị T có nguyện vọng được nuôi con chung không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Xét khả năng điều kiện và hoàn cảnh, Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu Phương A có nguyện vọng được sống với mẹ sau khi cha mẹ lý hôn, từ khi ly thân đến nay chị T đã về bên nhà cha mẹ chị sinh sống, cháu Phương A sống với mẹ có cuộc sống sinh hoạt bình thường, có nơi ăn ở ổn định do đó cần giao cháu cháu Phương A cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con chung là phù hợp với điều kiện cuộc sống thực tế. Ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Anh H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con mà không ai được cản trở. Khi cần thiết anh chị có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ: Chị T và anh H xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập xem xét.

[4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chị Phạm Thị T có nghĩa vụ nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0001498 ngày 11/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Vậy chị T đã nộp đủ án phí.

[5] Hội đồng xét xử, xét lời phát biểu của kiểm sát viên là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147; Điều 227; Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị T được ly hôn với anh Bùi Thanh H.

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Bùi Thị Phương A, sinh ngày 26/01/2003 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi trưởng thành. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Anh H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản. Khi cần thiết anh, chị có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ: Không có nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

4. Án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Phạm Thị T có nghĩa vụ nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0001498 ngày 11/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Vậy chị T đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo:

Án xử công khai, chị T có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/9/2018).

Đối với anh H vắng mặt tại phiên tòa thì có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2018/HNGĐ-ST ngày 28/09/2018 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:59/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về