Bản án 59/2017/HNGĐ-ST ngày 27/12/2017 về ly hôn giữa chị H và anh L

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 59/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/12/2017 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH L

Ngày 27 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 493/2017/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, tranh chấp về cấp dưỡng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2017/QĐXX-ST ngày 12 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H; sinh năm 1992; cư trú tại: Ấp M, xã L, huyện Đ, tỉnh Bình Phước (xin vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Phan Văn L; sinh năm 1992; cư trú tại: Khu phố T, phường B, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước (xin vắng mặt),

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/11/2017 và tại bản tự khai, nguyên đơn Nguyễn Thị H trình bày:

Chị và anh Phan Văn L chung sống với nhau từ năm 2016, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước (Giấy chứng nhận kết hôn số 106/2016 ngày 08/12/2016). Việc kết hôn là do hai bên tự nguyện, không bị ai ép buộc. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến việc thường xuyên cãi vã nhau. Anh chị đã ly thân từ tháng 5/2017, từ khi ly thân cả hai không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh L.

Quá trình chung sống anh chị có 01 con chung tên là Phan Nguyễn Ngọc N, sinh ngày 29/10/2016. Hiện nay con đang ở với chị H. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được nuôi con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Về chia tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, chị H không còn yêu cầu nào khác.

Tại đơn xin giải quyết vắng mặt ngày 30/11/2017, bị đơn Phan Văn L trình bày:

Anh và chị H chung sống và đăng ký kết hôn năm 2016 tại UBND phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau do tính tình không hợp, cuộc sống chung không hạnh phúc. Nay chị H yêu cầu ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Quá trình chung sống anh chị có có 01 con chung tên là Phan Nguyễn Ngọc N, sinh ngày 29/10/2016. Hiện nay con đang ở mẹ. Anh đồng ý giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh L không có ý kiến gì.

Về chia tài sản: Anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc và đi làm xa nên anh L xin Tòa án giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng.

Ngoài ra, anh L không còn yêu cầu nào khác.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn, bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn Nguyễn Thị H và bị đơn Phan Văn L đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh L là đúng quy định.

Bị đơn Phan Văn L hiện đang cư trú tại khu phố M, phường B, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị H và anh L chung sống và có đăng kí kết hôn. Nay chị H yêu cầu xin ly hôn với anh L, yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Xét yêu cầu khởi kiện trên thì chị H có quyền được yêu cầu xin ly hôn anh L theo quy định tại Khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và vụ án có quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, tranh chấp về cấp dưỡng” theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị H và anh L tự nguyện chung sống với nhau, có thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Căn cứ vào các Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là đúng quy định pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Chị H và anh L đều thừa nhận sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn kéo dài do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nên gia đình không hạnh phúc. Do không thể chung sống nên anh chị đã ly thân từ tháng 5/2017 đến nay. Trong thời gian đó cả hai vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ gì lẫn nhau, chị H khẳng định mình không còn tình cảm với chồng và vẫn giữ yêu cầu ly hôn và anh L cũng đồng ý ly hôn. Căn cứ vào Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cho thấy tình nghĩa vợ chồng giữa anh chị đã không còn. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H là có cơ sở.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 01 con chung tên là Phan Nguyễn Ngọc N, sinh ngày 29/10/2016. Hiện nay con đang ở chị H. Chị H có nguyện vọng được nuôi con chung và anh L cũng đồng ý giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng nên yêu cầu của chị H được chấp nhận.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con, anh L cũng không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về chia tài sản: Chị H và anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí đối với tranh chấp hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị H phải chịu 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm ngàn đồng) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56, các Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Phan Văn L.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao cho chung Phan Nguyễn Ngọc N, sinh ngày 29/10/2016 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Phan Văn L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về chia tài sản: Không xem xét giải quyết.

- Án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng chị H đã nộp theo biên lai thu tiền số 0002433 ngày 14/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Chị H đã nộp đủ án phí.

- Chị Nguyễn Thị H và anh Phan Văn L được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2017/HNGĐ-ST ngày 27/12/2017 về ly hôn giữa chị H và anh L

Số hiệu:59/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về