TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LÂM, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 59/2017/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2017 VỀ LY HÔN
Ngày 18 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 115/2017/TLST-HNGĐ ngày 11/5/2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2017/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2017giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Cao Thị Mỹ D– SN 1968
Địa chỉ: Thôn C 2, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên tòa.
* Bị đơn: Ông Hoàng Văn Hùng - SN 1962
Địa chỉ: C 2, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 21/4/2017, bản tự khai ngày 11/5/2017 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Cao Thị Mỹ D trình bày: Bà và ông Hoàng Văn H tự nguyện sống chung từ năm 1990 nhưng đến năm 2005 mới đăng ký kết hôn. Có 03 con chung là Hoàng Thảo N và Hoàng Bảo T (đều đã trưởng thành) và Hoàng Tiều M – sinh ngày 20/9/2000. Trong thời gian chung sống, giữa bà và ông H xảy ra mâu thuẫn cách đây đã lâu do ông H có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu về gây sự, đánh vợ. Vợ chồng mặc dù sống chung một nhà nhưng thực tế đã không ai quan tâm tới ai từ năm 7,8 năm nay. Do vậy, nay bà thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn ông H. Về con chung, bà có nguyện vọng được nuôi cháu M, không yêu cầu ông Hùng cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung không yêu cầu giải quyết. Nợ chung: không có.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 13/6/2017 cũng như biên bản hòa giải cùng ngày, bị đơn ông Hoàng Văn H trình bày: Ông thống nhất với lời trình bày của bà Cao Thị Mỹ D về thời gian kết hôn. Trong quá trình chung sống vợ chồng ông luôn xảy ra mâu thuẫn do ông không làm ra tiền. Ông thừa nhận vợ chồng đã không còn tình cảm từ năm 2013 đến nay mặc dù vẫn sống cùng nhà nhưng ông không đồng ý ly hôn vì ông theo đạo.
Con chung: các con chung Hoàng Bảo T và Hoàng Thảo N đều đã trưởng thành. Đối với cháu Hoàng Tiểu M – SN 2000, ông đồng ý giao cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng, ông không cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung, ông không yêu cầu giải quyết. Nợ chung, không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Hoàng Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Hùng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông H.
[2] Về nội dung: Bà Cao Thị Mỹ D và ông Hoàng Văn H tự nguyện sống chung từ năm 1990 và đến năm 2005 đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp.
[3] Theo nguyên đơn bà Dung thì giữa bà và ông H xảy ra mâu thuẫn đã lâu do ông H không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu về chửi, đánh bà, có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Vợ chồng mặc dù sống chung nhà nhưng không ai quan tâm tới ai từ hơn 6 năm nay. Bị đơn ông H thừa nhận vợ chồng xảy ra mâu thuẫn đã lâu do ông không làm ra tiền, vợ chồng không ai quan tâm tới ai từ 3 năm nay nhưng ông không đồng ý ly hôn vì ông theo đạo không cho phép ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, thực tế giữa bà D và ông H có xảy ra mâu thuẫn diễn ra trong thời gian dài nhưng không thể hòa giả được, cả hai bên cũng thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn, không ai quan tâm tới ai từ hơn 3 năm nay. Do vậy, xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà D và ông H là không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Cao Thị Mỹ D là phù hợp.
[4] Về con chung: Có 03 con chung là Hoàng Bảo T và Hoàng Thảo N đều đã trưởng thành. Đối với cháu Hoàng Tiểu M – SN 2000 có nguyện vọng được sống cùng với mẹ nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao con chung Hoàng Tiều M – sinh ngày 20/9/2000 cho bà Cao Thị Mỹ D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con do bà D không yêu cầu.
[5] Tài sản chung: bà D và ông H không yêu cầu tòa giải quyết.
[6] Nợ chung: không có.
[7] Án phí: Bà D phải nộp án phí 300.000đ HNGĐ-ST.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ vào Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án..
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Cao Thị Mỹ D được ly hôn ông Hoàng Văn H.
2.Về con chung: Giao con chung Hoàng Tiểu M – sinh ngày 20/9/2000 cho bà Cao Thị Mỹ D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con do bà D không yêu cầu.
Vì lợi ích của con khi cần thiết các bên có quyền làm đơn thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
Về tài sản chung: bà D và ông H không yêu cầu tòa giải quyết. Nợ chung: không có.
3. Về án phí: Bà Cao Thị Mỹ D phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí HNGĐ-ST nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2012/0002747 ngày 11/5/2017 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Cam Lâm. Bà D đã nộp đủ án phí.
Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 59/2017/HNGĐ-ST ngày 18/08/2017 về ly hôn
Số hiệu: | 59/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cam Lâm - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về