Bản án 59/2017/HNGĐ-ST ngày 06/10/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 59/2017/HNGĐ-ST NGÀY 06/10/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 10 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 225/2017/TLST-HNGĐ ngày 06/6/2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2017/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Ngọc D, sinh năm 1995; địa chỉ: tổ 4, khu phố Bình Chánh, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Có mặt

2. Bị đơn: Ông Phan Ngọc L, sinh năm 1991; HKTT: tổ 2, khu phố Tân Bình, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Đặng Thị Ngọc D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng Thị Ngọc D sau thời gian tìm hiểu đã tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương ngày 04/6/2015. Thời gian 02 năm đầu chung sống hạnh phúc, sau đó ông L không có trách nhiệm với vợ con, gia đình, không tu chí làm ăn, thường tụ tập bạn bè nhậu nhẹt, ông L còn mê cờ bạc, nhiều lần bà D can ngăn, khuyên bảo ông L nhưng không được, vợ chồng thường xuyên cãi vã, bà D đã bỏ về nhà cha mẹ ruột ở và ly thân được khoảng 01 năm không còn tình cảm và không ai quan tâm nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục sống chung, bà Đặng Thị Ngọc D yêu cầu được giải quyết ly hôn ông Phan Ngọc L.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Phan Đặng Ngọc K, sinh ngày 13/4/2015, khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi mỗi con chung 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung và vay nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn ông Phan Ngọc L, nhiều lần triệu tập ông L tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng ông L không có mặt, cũng không có ý kiến, yêu cầu trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đặng Thị Ngọc D.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

- Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chấp hành giấy triệu tập của Tòa án để tham gia tố tụng, tôn trọng tòa án, chấp hành nội quy phiên tòa, bị đơn không chấp hành triệu tập của Tòa án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành giải quyết vụ án đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục: Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn ông Phan Ngọc L tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng ông Phan Ngọc L tiếp tục vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xử vắng mặt bị đơn ông Phan Ngọc L.

[2] Về nội dung: Bà Đặng Ngọc Dung và ông Phan Ngọc L có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận kết hôn số 42 quyển 01 ngày 17/10/2014  nên đây là hôn nhân hợp pháp. Nguyên đơn bà Đặng Thị Ngọc D xác định trong quá trình sống chung xảy ra mâu thuẫn, cãi vã do ông L sống không có trách nhiệm với vợ con, gia đình, không tu chí làm ăn, thường tụ tập bạn bè nhậu nhẹt, ông L còn mê cờ bạc, tại phiên tòa, bà D khẳng định cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, hiện tại không còn tình cảm với chồng, vợ chồng đã ly thân 01 năm, không thể tiếp tục chung sống vợ chồng với ông Phan Ngọc L. Bị đơn ông Phan Ngọc L mặc dù được triệu tập hợp lệ nhưng cố ý vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình giải quyết vụ án là đã thể hiện ý chí không muốn đoàn tụ chung sống với bà D, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng như bà D trình bày là có thật và thực tế bà D và ông L đã sống ly thân. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Đặng Thị Ngọc D và ông Phan Ngọc L là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó bà Đặng Thị Ngọc D khởi kiện yêu cầu được ly hôn ông Phan Ngọc L là có cơ sở chấp nhận.

[3] Về con chung tên Phan Đặng Ngọc K, sinh ngày 13/4/2015 còn nhỏ, cần có sự chăm sóc của người mẹ, do đó cần thiết giao con cho bà D nuôi dưỡng sau khi ly hôn là  phù hợp, đảm bảo quyền lợi của con. Ông Phan Ngọc L không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, xét thấy yêu cầu cấp dưỡng của nguyên đơn đối với bị đơn là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các bên không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn, bị đơn phải chịu theo qui định.

[6] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 36, 147, 220, 227 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng: các Điều 56, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đặng Thị Ngọc D đối với bị đơn ông Phan Ngọc L về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con" như sau :

- Về hôn nhân: Bà Đặng Thị Ngọc D được ly hôn ông Phan Ngọc L.

- Về con chung: Giao con chung tên Phan Đặng Ngọc K, sinh ngày 13/4/2015 cho bà Đặng Thị Ngọc D trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Ông Phan Ngọc L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung tên Phan Đặng Ngọc K, sinh ngày 13/4/2015 mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Ông Phan Ngọc L và bà Đặng Thị Ngọc D đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, ông Phan Ngọc L được quyền thăm nom chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con chưa thành niên, khi cần thiết và có yêu cầu, Tòa án sẽ giải quyết việc thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra xem xét.

2. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Đặng Thị Ngọc D phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0013482 ngày 31/5/2017 của Chi cục thi hành án thị xã Tân Uyên. Ông Phan Ngọc L phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong khoản tiền trên thì còn phải trả cho người được thi hành án khoản tiền lãi theo mức lãi suất qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thanh toán.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2017/HNGĐ-ST ngày 06/10/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:59/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:06/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về