TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 588/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ H VÀ ANH T
Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 451/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 47/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1981; Đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ dân phố số 1 Lương Xá, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: thôn Đô Quan, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định. Có mặt.
Bị đơn: Anh Hoàng Anh T, sinh năm 1980; Nơi cư trú: tổ dân phố số 1 Lương Xá, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định. Vắng mặt tại phiên tòa lần 2.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình đề ngày 01-10-2020, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hoàng Anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu khoảng một năm và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Hòa (nay là phường Lộc Hòa), thành phố Nam Định ngày 14-10-2007. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc tại tổ dân phố số 1 Lương Xá, phường Lộc Hòa, thành phố Nam Định đến khoảng đầu năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm lối sống, anh T không tu chí làm ăn, nghiện ma túy ngoài ra còn thường xuyên đánh đập và đuổi chị ra khỏi nhà. Do mâu thuẫn kéo dài nên từ năm 2013 vợ chồng chị đã sống ly thân, chị đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ tại thôn Đô Quan, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực để ở. Trong thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.
Về con chung: Chị H xác định vợ chồng có hai chung là Hoàng Việt Anh, sinh ngày 17-8-2008, giới tính Nam và Hoàng Anh Liễu, sinh ngày 26-11-2013, giới tính Nữ. Hiện nay hai cháu đang ở cùng với anh T. Về việc nuôi con: Chị H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hoàng Anh Liễu. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H trình bày vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị H xác định vợ chồng không có gì và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Hoàng Anh T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, nhưng anh T không đến Tòa án để làm bản tự khai, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không tham gia phiên tòa nên anh T không có quan điểm để giải quyết vụ án.
Tại biên bản thu thập tài liệu chứng cứ ngày 27-10-2020 tại Ủy ban nhân dân phường Lộc Hòa xác nhận: Quá trình chung sống vợ chồng chị H và anh T thường xảy ra mâu thuẫn, hiện tại chị H đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ tại thôn Đô Quan, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực để ở và vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay. Về con chung: Vợ chồng chị H và anh T có hai chung là Hoàng Việt Anh, sinh ngày 17-8-2008, giới tính Nam và Hoàng Anh Liễu, sinh ngày 26-11-2013, giới tính Nữ. Hiện tại hai cháu đang ở cùng với anh T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá: Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật. Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự như sau: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn, quá trình giải quyết vụ án đã không cung cấp bản tự khai, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, 02 lần vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do. Như vậy bị đơn đã từ bỏ các quyền và nghĩa vụ của mình. Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó căn cứ áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử xử cho ly hôn giữa chị H và anh T. Về con chung: Chị H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con Hoàng Anh Liễu nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nguyện vọng của chị H giao con Hoàng Anh Liễu cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao con Hoàng Việt Anh cho anh Hoàng Anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Về tài sản chung và vay nợ: chị H không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn là anh Hoàng Anh T. Tại phiên tòa anh T vắng mặt lần 2 nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Hoàng Anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Lộc Hoà, thành phố Nam Định năm 2007 nên hôn nhân giữa chị H và anh T là hôn nhân hợp pháp.
[3] Về mâu thuẫn vợ chồng: Sau khi kết hôn Chị H và anh T sống hòa thuận đến khoảng năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị H trình bày do anh T không tu chí làm ăn và nghiện ma túy thường xuyên đánh đập và đuổi chị H ra khỏi nhà. Do mâu thuẫn kéo dài nên từ năm 2013 vợ chồng chị đã sống ly thân, chị H đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ tại thôn Đô Quan, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực để ở.Trong thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn và có nguyện vọng được ly hôn với anh T. Đối với anh T, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng anh T không đến Tòa án để viết bản tự khai và không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Tại phiên tòa anh T vẫn vắng mặt không có lý do thể hiện việc anh T không có thiện chí hòa giải, giải quyết mâu thuẫn vợ chồng và việc nuôi con. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử có căn cứ cho ly hôn giữa chị H và anh T theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về tranh chấp nuôi con: Chị H có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con là Hoàng Anh Liễu sau khi vợ chồng ly hôn. Xét thấy, các cháu Việt Anh và Anh Liễu hiện đang sinh sống cùng anh T và có nguyện vọng được ở với bố khi bố mẹ ly hôn tuy nhiên anh T không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cũng như tại phiên tòa để trình bày về việc nuôi con cũng như về cấp dưỡng nuôi con. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử giao con Hoàng Anh Liễu cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giao con Hoàng Việt Anh cho anh Hoàng Anh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Xét việc chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H là nguyên đơn trong vụ án nên phải chịu toàn bộ án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Hoàng Anh T.
2. Về nuôi con chung: Giao con Hoàng Anh Liễu, sinh ngày 26-11-2013, giới tính Nữ cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng. Giao con Hoàng Việt Anh, sinh ngày 17-8-2008, giới tính Nam cho anh Hoàng Anh T trực tiếp trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị H về cấp dưỡng nuôi con do vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.
Người không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung 3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Nguyễn Thị H đã nộp tại biên lai số 0003201 ngày 05-10- 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Hoàng Anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 588/2020/HNGĐ-ST ngày 25/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị H và anh T
Số hiệu: | 588/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về