Bản án 58/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 58/2021/HS-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:51/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56A/2021/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Đào Xuân T1; sinh ngày 05/8/1965; giới tính Nam; tại Thái Bình. Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn Đ, xã D, huyện T, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đào Văn C ( Đã chết); con bà Đào Thị M; sinh năm 1924; có vợ Phạm Phạm Thị H; sinh năm 1971; có 02 con, con lớn sinh năm 1992 con nhỏ sinh năm 1993. Tiền án: Bản án số 25/2020/HSST ngày 29/4/2020 Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy đến ngày 17/12/2020 chấp hành xong hình phạt tù, tiền sự: Không; nhân thân: Tháng 2 năm 1985 tham gia nghĩa vụ quân sự đến tháng 2 năm 1988 xuất ngũ về địa phương. Bị tạm giữ từ ngày 23/4/2021 đến ngày 26/4/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. (Có mặt) Người chứng kiến:

- Ông Phạm Văn T2, sinh năm 1962; nơi cư trú: thôn Đoàn Kết, xã Dương Hồng Thủy, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (Vắng mặt).

- Anh Hoàng Hữu Đ, sinh năm 1975, nơi cư trú: thôn Bắc Đồng, xã Dương Hồng Thủy, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9 giờ 00 phút ngày 23/4/2021 Đào Xuân T1 đi bộ từ nhà đến thôn Đ, xã D, huyện T, tỉnh B gặp mua của một người đàn ông không biết tên tuổi địa chỉ 01 gói ma túy 100.000 đồng sau đó đi tìm nơi sử dụng, khi T1 đi được 1 đoạn thì bị Công an xã D tuần tra phát hiện bắt giữ trước sự chứng kiến của ông Phạm Văn T2 và anh Hoàng Hữu Đ tổ công tác tiến hành kiểm tra người T1 thu giữ trong túi Quần bên phải phía trước T1 đang mặc 01 gói T1 khai là hêrôin vừa mua được để sử dụng cho bản thân được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ mở ra bên trong gói chứa chất bột màu trắng dạng cục ngoài ra không thu giữ gì khác. Sau đó tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng có chữ ký của T1 và người chứng kiến, sau đó tổ công tác đưa T1 và mời những người chứng kiến về trụ sở Công an xã Dương Hồng Thủy, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy đã ra lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Thủy, quá trình khám xét không phát hiện thu giữ gì khác.

Bản kết luận giám định số 133/KLGĐ - PC09, ngày 26/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi:“ Vật chứng quản lý của Đào Xuân Thủy; sinh 1965; hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn Đồng Tỉnh, xã Dương Hồng Thủy, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, ngày 23/4/2021”Mẫu số A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1245 gam (không phẩy một nghìn hai trăm bốn mươi lăm gam). Hoàn lại sau giám định 0,0779 gam( Không phẩy không nghìn bẩy trăm bẩy mươi chín gam ) niêm phong trong phong bì số 133/KLGĐ - PC09, ngày 26/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đào Xuân Thủy không có ý kiến, khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình nêu trên.

Bản cáo trạng số: 56/CT-VKSTTTB ngày 31 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy thực hiện quyền công tố, giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Đào Xuân T1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đào Xuân T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h Điều 52 Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đào Xuân T1 từ 1 năm 6 tháng đến 1 năm 9 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 23 tháng 4 năm 2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số Hêrôin thu của bị cáo Đào Xuân T1 có khối lượng 0,1245 gam (không phẩy một nghìn hai trăm bốn mươi lăm gam). Hoàn lại sau giám định 0,0779 gam( Không phẩy không nghìn bẩy trăm bẩy mươi chín gam) niêm phong trong phong bì số 133/KLGĐ - PC09, ngày 26/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến và tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ kết tội bị cáo: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 23/4/2021 Đào Xuân T1 có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy loại Heroine có khối lượng 0,1245 gam thì bị Công an xã Dương Hồng Thủy tuần tra phát hiện bắt giữ. Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời khai của bị cáo Đào Xuân T1 phù hợp với lời khai của người chứng kiến là Phạm Văn T2 và anh Hoàng Hữu D. Lời khai của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang Công an xã Dương Hồng Thủy huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình lập hồi 10 giờ 00 phút ngày 23/4/2021 tại trụ sở Công an xã Dương Hồng Thủy . Biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu lập hồi 10 giờ 30 phút. Bản kết luận giám định số 133/KLGĐ - PC09, ngày 26/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì:

“Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

[...] c) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; [...]”.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Đào Xuân Thủy phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Ma túy là vật cấm lưu hành, không những làm sa sút về sức khỏe trí tuệ con người mà nó còn làm hủy hoại đạo đức nhân cách con người, phá v hạnh phúc gia đình, là tác nhân lan truyền đại dịch HIV/ IDS, là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác gây ảnh hưởng đến trật tự trị an. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm minh tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích, nên phải chịu tình tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, nhưng do bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy bị cáo Đào Xuân T1 khai mua của người của một người nam giới khoảng 40 tuổi không biết tên, tuổi, địa chỉ tại thôn D, xã Đ, huyện T, tỉnh B nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo Đào Xuân T1 ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1245 gam (không phẩy một nghìn hai trăm bốn mươi lăm gam). Hoàn lại sau giám định 0,0779 gam( Không phẩy không nghìn bẩy trăm bẩy mươi chín gam ) niêm phong trong phong bì số 133/KLGĐ - PC09, ngày 26/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật Nhà nước cấm lưu hành. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy [9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự và các điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đào Xuân T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Đào Xuân Thủy 01 năm 6 tháng tù (một năm sáu tháng tù), thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 23 tháng 4 năm 2021).

2. Về xử lý vật chứng:

2.1. Tịch thu tiêu hủy số Hêrôin thu của bị cáo Đào Xuân T1 có khối lượng 0,1245 gam (không phẩy một nghìn hai trăm bốn mươi lăm gam). Hoàn lại sau giám định 0,0779 gam( Không phẩy không nghìn bẩy trăm bẩy mươi chín gam ) niêm phong trong phong bì số 133/KLGĐ - PC09, ngày 26/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và Chi cục thi hành án dân sự huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ngày 01 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

3. Về án phí: Bị cáo Đào Xuân T1 phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 29/6/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:58/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về