Bản án 58/2021/HSST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 58/2021/HSST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2021/TLST-HS ngày 30/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2021/QĐXXST-HS ngày 14/4/2021 đối với các bị cáo:

1. Lường Văn C, tên gọi khác: Không; sinh năm 1988 tại huyện T, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lường Văn H, sinh năm 1970 và bà Quàng Thị D, sinh năm 1970; bị cáo có vợ là Lò Thị B, sinh năm 1990 (đã ly hôn) và 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2009; không tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/01/2021 đến nay, có mặt.

2. Lường Văn N, tên gọi khác: Không; sinh ngày 20/12/2003 tại huyện T, tỉnh Sơn La (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 17 tuổi 29 ngày); nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lường Văn A, sinh năm 1986 và bà Lò Thị H, sinh năm 1988; bị cáo chưa có vợ con; không tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/01/2021 đến nay, có mặt.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Lường Văn N: Chị Lò Thị H, sinh năm 1988; nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La, có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo Lường Văn N, Lường Văn C: Ông Lường Văn H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Sơn La, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị H, sinh năm 1988; nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La, có mặt.

- Đại diện tổ chức nơi bị cáo Lường Văn N sinh hoạt: Ông Lường Văn M – Bí thư Chi đoàn xã M, huyện T, tỉnh Sơn La, có mặt.

- Người phiên dịch: Ông Lò Hoàng I, sinh năm 1986; nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 10 phút ngày 19/01/2021, Tổ công tác Công an xã M, huyện T, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản P, xã M, huyện T, phát hiện Lường Văn C, Lường Văn N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm: Một gói nilon màu trắng bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng nghi là heroine (C, N khai là Heroine); Một gói nilon màu trắng bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng nghi là heroine và 01 viên nén hình trụ tròn màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (C, N khai là Heroine và hồng phiến); Một chiếc xe máy không có biển kiểm soát, nhãn hiệu DETECH.

Hồi 16 giờ 00 phút ngày 20/01/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu giám định, kết quả: Chất bột cục màu trắng nghi là Heroine (trong gói nilon màu trắng thứ nhất), có khối lượng: 0,03 gam (Ký hiệu N1); Chất bột cục màu trắng nghi Heroine (trong gói nilon màu trắng thứ hai), có khối lượng: 0,06 gam (Ký hiệu N2) và 01 viên nén hình trụ tròn màu hồng nghi là ma túy tổng hợp, khối lượng 0,11 gam (Ký hiệu N3) gửi giám định chất và loại ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 396 ngày 25/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu N1 và N2 đều là ma túy; loại Heroine, Khối lượng của mẫu gửi giám định là: N1 = 0,03 gam, N2 = 0,06 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu N3 là ma túy; loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là: 0,11 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là: 0,09 gam; loại Heroine và 0,11 gam; loại Methamphetamine”. (Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu hồng thuộc mẫu giám định ký hiệu N3, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng: 0,06 gam. Đối với mẫu N1, N2 đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Quá trình điều tra Lường Văn C, Lường Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Khong 19 giờ 30 phút ngày 19/1/2021, Lường Văn N điều khiển 01 chiếc xe máy, nhãn hiệu DETECH, không có biển kiểm soát từ nhà ở bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La đến nhà Lường Văn C (ở cùng bản) chơi. Gặp nhau, N hỏi C có tiền không thì đi tìm mua ma túy để cùng nhau sử dụng, C đồng ý. Tiếp đó, N điều khiển xe máy chở C đến bản T, xã T, huyện T tìm mua ma túy. Trên đường đi, C đưa cho N số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Khi đến khu vực Bản Thôm, xã Thôm Mòn, N, C gặp và hỏi mua của một người đàn ông dân tộc Thái (N, C không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nhìn giống người nghiện ma túy đang đứng bên đường được một lượng ma túy gồm: 01 gói bằng nilon màu trắng (bên trong có một ít heroine) và 01 gói nilon màu trắng (bên trong có chứa một ít heroine và 01 viên hồng phiến) với giá 200.000 đồng. Mua được ma túy xong, N đưa 02 gói ma túy cho C, C cất 02 gói ma túy vào trong túi áo đằng trước bên phải đang mặc, rồi N chở C đi về nhà. Khi N, C đến khu vực bản Pục Tứn, xã M, huyện T thì bị tổ công tác Công an xã M, huyện T phát hiện, thu giữ tang vật, dẫn giải Lường Văn C, Lường Văn N về Ủy ban nhân dân xã Mường Khiêng lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 41/CT- VKS ngày 30 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lường Văn C từ 20 đến 24 tháng tù.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 90, Điều 91, Điều 98, Điều 101 Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lường Văn N từ 9 đến 12 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 túi nilon màu trắng chứa 0,06 gamMethamphetamine;

02 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu giám định đã bóc mở.

Trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị Hoàng: Một chiếc xe máy, nhãn hiệu DETECH, không có biển kiểm soát, không có mặt nạ, không có yếm; số khung: 150876, số máy: 150876, đã qua sử dụng cũ.

Miễn án phí hình sơ thẩm cho các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N trình bày: các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N phạm tội lần này là lần đầu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thật thà khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; bị cáo Lường Văn C thuộc hộ nghèo, bị cáo Lường Văn N khi phạm tội mới 17 tuổi 29 ngày, là người chưa thành niên, do đó trình độ nhận thức pháp luật của các bị cáo còn hạn chế. Nên đề nghị HĐXX xem xét cho các bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khoan hồng theo quy định của pháp luật. Đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để tạo điều kiện cho các bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội hòa nhập cộng đồng.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo có ý kiến: Nhất trí như nội dung phát biểu của người bào chữa cho bị cáo, không có ý kiến gì thêm.

Đại diện tổ chức nơi bị cáo Lường Văn N sinh hoạt có ý kiến: Tại nơi sinh hoạt, bị cáo Lường Văn N chấp hành chủ trương, chính sách của Nhà nước, chưa xảy ra hành vi vi phạm gì, đề nghị Hội đồng xét xử tạo điều kiện các bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị Hoàng có ý kiến: Chiếc xe máy nhãn hiệu DETECH bị cáo bị thu giữ là phương tiện đi lại duy nhất của gia đình, bị cáo sử dụng chiếc xe vào việc phạm tội gia đình chị không biết, gia đình chị có nguyện vọng xin lại chiếc xe máy trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo Lường Văn N, người bào chữa cho bị cáo Lường Văn N không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Ngày 19/01/2021 các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N đã có hành vi cất giữ trái phép 0,09 gam loại chất Heroine và 0,11 gam loại chất Methamphetamine, tổng khối lượng chất ma túy các bị cáo cất giữ là 0,20 gam với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa các bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, các bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 22 giờ 20 phút ngày 19/01/2021 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Mường Khiêng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại vật chứng; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 396 ngày 25/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm. Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, có căn cứ.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với các bị cáo, trên cơ sở xem xét vai trò của các bị cáo; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của các bị cáo.

Các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, trong đó Lường Văn N là người khởi xướng hành vi phạm tội, là người trực tiếp điều khiển xe chở Lường Văn C đi mua ma túy, trực tiếp trao đổi, nhận ma túy đưa cho Lường Văn C. Lường Văn C là người tiếp nhận ý chí của Lường Văn N, trực tiếp đưa tiền cho Lường Văn N mua ma túy và nhận ma túy từ Lường Văn N cất giấu để cùng sử dụng. Do đó, cần áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 để cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo.

Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo Lường Văn C có bà nội là Lường Thị Úi được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng 3, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xem xét đối với bị cáo.

Thời điểm bị cáo Lường Văn N thực hiện hành vi phạm tội và thời điểm xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi, do đó cần áp dụng quy định tại các Điều 90, Điều 91, Điều 98, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Xét lời bào chữa của người bào chữa cho bị cáo Lường Văn N tại phiên tòa ngày hôm nay đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là có căn cứ, cần được xem xét chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo Lường Văn C không có tài sản, bị cáo Lường Văn N là người dưới 18 tuổi phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái ở khu vực bản T, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La với giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) vào ngày 19/01/2021. Quá trình điều tra xác định Lường Văn C, Lường Văn N không biết họ tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán ma túy cho C, N, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thuận Châu không có đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Vật chứng vụ án:

Đối với 0,06 gam Methamphetamine trong 01 túi nilon màu trắng còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy cùng 02 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu DETECH, không có biển kiểm soát, không có mặt nạ, không có yếm; số khung: 150876, số máy: 150876, đã qua sử dụng cũ, quá trình điều tra xác định là tài sản của gia đình bị cáo, là phương tiện đi lại duy nhất của gia đình, việc bị cáo sử dụng chiếc xe vào việc phạm tội, gia đình bị cáo không biết, do đó cần trả lại chiếc xe cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị Hoàng là mẹ đẻ bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo Lường Văn C thuộc hộ nghèo, các bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lường Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lường Văn C 18 (mười tám) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 19/01/2021).

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 98; Điều 101 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lường Văn N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lường Văn N 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 19/01/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lường Văn N cùng đồng phạm - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 19/01/2021. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 023892 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu. Bên trong có: Hai mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; Một phong bì niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Lường Văn C và Lường Văn N - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 19/01/2021. Gồm có: Một phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 túi nilon màu trắng chứa chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu N3 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng: 0,06 gam là ma túy, loại Methamphetamine. Mặt sau dán giấy niêm phong Công an tỉnh Sơn La số: 051928, trên giấy niêm phong có 03 dòng chữ ký kèm 03 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La;

Trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị Hoàng: Một chiếc xe máy, nhãn hiệu DETECH, không có biển kiểm soát, không có mặt nạ, không có yếm; số khung: 150876, số máy: 150876, đã qua sử dụng cũ.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/3/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Các bị cáo Lường Văn C, Lường Văn N; người đại diện hợp pháp cho bị cáo Lường Văn N, người bào chữa cho bị cáo Lường Văn N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị H được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2021/HSST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:58/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về