Bản án 58/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

 BẢN ÁN 58/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 54/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu T - Sinh năm 2000 tại Thanh Hóa; Nơi đăng ký NKTT và nơi ở:

SN 05/08/49, phường Đ , thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu T và bà Trần Thị Y, Vợ: chưa; Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 21/01/2017 bị Công an thành phố T xử phạt hành chính về hành vi “xâm hại sức khỏe của người khác”. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/9/2020, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22h45’ ngày 30/8/2020, tại khu vực đầu đường A, phường Đ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, phòng cảnh sát Cơ động Công an thành p hố T kiểm tra hành chính xe tacxi BKS 36A – 40463 do anh Nguyễn Văn H điều khiển, phát hiện Nguyễn Hữu T đang ngồi trong xe có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra thu giữ dưới gầm ghế phụ nơi T ngồi 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng. T khai đó là ma túy đá T mua về sử dụng.

Tại cơ quan điều tra T khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 22h15’ngày 30/8/2020 T đi bộ xuống ngã ba khu vực T, phường Đ , thành phố T mua của một người nam giới khoảng 27 tuổi, T không biết tên, địa chỉ cụ thể mua 01 gói ma túy đá với giá 400.000đ mục đích để sử dụng. Mua xong, T đón xe tacxi đến bệnh viện đa khoa thành phố T để khám bệnh, trên đường đi thì bị phát hiện, thu giữ tang vật.

Tang vật thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (2 x 2)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng.

Tại bản kết luận giám định số 2464/MT-PC09 ngày 03/9/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng trong gói vật chứng thu giữ của Nguyễn Hữu T gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,7410g (không phẩy bẩy bốn một gam) loại Methamphetamine.

Đối với người nam giới khoảng 27 tuổi, T khai đã bán ma túy cho T, quá trình điều tra T khai không rõ địa chỉ cụ thể, nên không có cơ sở xác minh xử lý.

Đối với anh Nguyễn Văn H là người lái xe tacxi chở Nguyễn Hữu T, quá trình điều tra anh H không biết T tàng trữ ma túy, nên cơ quan Công an chỉ nhắc nhở rút kinh nghiệm.

Tại bản cáo trạng số: 322/CT-VKSTP ngày 29/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố T đã truy tố Nguyễn Hữu T về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS;

Tại phiên tòa đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS. Mức hình phạt VKS đề nghị đối với bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù. Ngoài ra VKS còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thừa nhận T bộ hành vi phạm tội, không tranh luận gì với đại diện VKS. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, tuy tố, xét xử đã được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì.

[2] Về hành vi phạm tội:

Khoảng 22h45’ ngày 30/8/2020 tại khu vực đầu đường A, phường Đ, thành phố T, Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang Nguyễn Hữu T có hành vi tàng trữ 0,741 gam loại: Methamphetamine.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội nêu trên của Nguyễn Hữu T có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS như cáo trạng của VKSND thành phố T truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hiện nay, tệ nạn ma túy đang là hiểm họa cho T xã hội, là một trong những nguyên nhân làm suy thoái kinh tế, làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Là một trong những tác nhân gây lây lan căn bệnh HIV/AIDS, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của giống nòi. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an T xã hội. Vì vậy tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải xử lý nghiêm minh.

Bị cáo tuổi đời còn trẻ, nhận thức rõ tác hại của ma túy, nhưng chỉ vì thỏa mãn nhu cầu của mình mà lao vào con đường phạm tội. Tại phiên tòa bị cáo tuy có thành khẩn khai báo nhưng không có thái độ ăn năn hối cải.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Căn cứ vào nhân thân, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và tính chất nghiêm trọng của tội phạm ma túy, cần áp dụng Điều 38 BLHS để cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về xử lý vật chứng: T bộ số ma túy còn lại sau giám định trong phong bì niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố T là vật nhà nước cấm lưu hành, nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự ; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự ; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên bố:Bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Hữu T 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/9/2020.

Vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong 01 phong bì niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, được đóng dấu của phòng kỹ thuật hình sự, kèm theo chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Lê Minh Tiến, Trần Thị Thúy Hằng và Trịnh Thị Thu .

Hiện số vật chứng trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, theo biên bản giao nhận vật chứng số 34/THA ngày 11/11/2020 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 58/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:58/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về