Bản án 58/2020/HSST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG NGUYÊN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 58/2020/HSST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 54/2020/TLST- HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2020/HSST-QĐ ngày 12 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/HSST-QĐ ngày 23 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ tên: Trần Văn S, tên gọi khác: Không; sinh ngày 19 tháng 01 năm 1986 tại xã H P, huyện H Ng, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: xóm 5, xã H P, huyện H Ng, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông: Trần Xuân B , sinh năm 1957 và bà: Nguyễn Thị Ph , sinh năm 1962; vợ: Hoàng Thị N và có 02 con; tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo tạm giữ, tạm giam từ ngày 19 tháng 8 năm 2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 19 tháng 8 năm 2020, Trần Văn S lên cơn nghiện ma túy nên gọi điện thoại cho một nam thanh niên mà S không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu. Do trước đó, S được một người bạn tên T trú cùng xã cho số điện thoại của nam thanh niên này. S hỏi “Có hàng không để cho em ba trăm”. (Ý Snói là có ma túy bán cho S300.000 đồng). Nam thanh niên đó nói “Có” và hẹn Stại địa điểm gần cây Cầu, lối vào đền Ông Hoàng Mười thuộc địa phận xã Hưng T , huyện H Ng . Sau đó, Sđiều khiển xe mô tô nhãn hiệu Atila màu đen, biển kiểm soát 37N5-6672 đến chỗ hẹn để thực hiện việc mua bán ma túy. Đến nơi, S tiếp tục gọi điện cho nam thanh niên đó nói “Em đến nơi rồi” thì nam thanh niên đó ra gặp S. Gặp nhau, Sđưa cho người đó 240.000 đồng (Hai trăm bốn mươi nghìn đồng), người đó cầm tiền rồi nói “Chờ một tý”. Một lúc sau, người đó gọi điện nói với S đến chỗ đống gạch bên mép phải đường QL 46C, hướng từ cầu Bến Thủy 2 lên xã H L , huyện H Ng có một gói thuốc lá Thăng Long, trong gói thuốc có gói ma túy. Sđi theo chỉ dẫn của người đó đến chỗ đống gạch thấy 01 gói thuốc lá Thăng Long, Sdùng tay trái cầm gói thuốc lá lên và kiểm tra bên trong có một gói ma túy rồi điều khiển xe theo đường QL 46C về hướng xã Ch Nh . Khi đi đến đoạn đường X 5, xã H L, huyện H Ng, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an huyện Hưng Nguyên phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trên tay Smột gói chất bột màu trắng;

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vellcom màu đỏ đen, bên trong có số thuê bao 0357803321; 01(một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Atila màu đen, biển kiểm soát 37N5-6672 đồng thời đưa Svà tang vật về Cơ quan Công an huyện H Ng để điều tra, làm rõ.

Biên bản mở niêm phong cân xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 19/8/2020 của Cơ quan CSĐT Công an huyện H Ng xác định khối lượng chất ma túy thu giữ của Trần Văn S là 0,105 gam.

Kết luận giám định số 1203/KL-PC09 (Đ2 - MT) ngày 21/8/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận “Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Trần Văn S gửi tới giám định là ma túy (Hêroin). Số chất bột màu trắng thu giữ của Trần Văn S có khối lượng là 0,105g”.

Vật chứng thu giữ gồm:

+ 01 gói nhỏ được gói ngoài cùng bằng bao potylen trong suốt tiếp theo được gói bằng bao bạc thuốc lá màu trắng vàng, trong cùng là chất bột màu trắng được bỏ vào phong bì của Ủy ban nhân dân xã H L dán kín mặt trước phong bì thư có ghi "Gói niêm phong vật chứng thu giữ của Trần Văn S (1986) trú tại xóm 5, xã H P, huyện H Ng, tỉnh Nghệ An vào ngày 19/8/2020 tại X 5, xã H L, huyện H Ng, Nghệ An";

+ 01 điện thoại màu đỏ đen hãng Vellcom có số thuê bao 0357803321 (đã qua sử dụng) được niêm phong theo đúng quy định;

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Atila màu đen hãng Yamaha mang BKS 37N5-6672.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi phạm tội của mình,về kết luận giám định và vật chứng vụ án nêu trên.

Bản Cáo trạng số 57/CT-VKS-HSngày 04 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An đã truy tố Trần Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện VKSND huyện H Ng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội nên VKS giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh đề nghị HĐXX tuyên bố: Bị cáo Trần Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn S từ 12 đến 15 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện viện kiểm sát.

Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H Ng , Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H Ng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về chứng cứ xác định tội danh: Lời khai tại phiên tòa và lời khai trong quá trình điều tra của Bị cáo là thống nhất với nhau; Phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 13 giờ 15 phút, ngày 19 tháng 8 năm 2020; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ vào hồi 14 giờ 05 phút, ngày 19 tháng 8 năm 2020; Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 15 giờ 00 phút, ngày 19 tháng 8 năm 2020; Bản kết luận giám định số 1203/KL-PC09 (Đ2 - MT) ngày 21 tháng 8 năm 2020; Phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố và thẩm tra tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Do nghiện ma túy nên bị cáo Trần Văn S mua của một Nam thanh niên (không xác định được tên, tuổi, địa chỉ) tại X 5, xã H L, huyện H Ng, tỉnh Nghệ An một ít ma túy (heroin) với giá 240.000 đồng, trọng lượng 0,105 gam về để sử dụng thì bị công an huyện Hưng Nguyên bắt quả tang.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ....;

b) ….;

c) ....Hêrôin có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

d) …;

Như vậy, căn cứ vào khối lượng ma túy và hành vi của bị cáo và đối chiếu với quy định của Điều luật nêu trên thì hành vi của bị cáo Trần Văn S có đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

[3]. Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo là người có đủ năng lực trách niệm hình sự. Bị cáo biết và nhận thức được hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do bị cáo là người nghiện nên mua ma túy để thỏa mãn nhu cầu của bản thân.Vì vậy, cần phải xử phạt tù đối với bị cáo mới đủ tính chất răn đe giáo dục bị cáo.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5,000,000 đồng đến 500,000,000 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.

Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo Biên bản xác minh, các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Về xử lý vật chứng:

+ 01 gói nhỏ được gói ngoài cùng bằng bao potylen trong suốt tiếp theo được gói bằng bao bạc thuốc lá màu trắng vàng, trong cùng là chất bột màu trắng được bỏ vào phong bì của Ủy ban nhân dân xã H L dán kín mặt trước phong bì thư có ghi "Gói niêm phong vật chứng thu giữ của Trần Văn S (1986) trú tại xóm 5, xã H P, huyện H Ng, tỉnh Nghệ An vào ngày 19/8/2020 tại X 5, xã H L, huyện H Ng, Nghệ An". Đây là những vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 (một) điện thoại màu đỏ đen hãng Vellcom có số thuê bao 0357803321 (đã qua sử dụng) được niêm phong theo đúng quy định đây là phương tiện phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước;

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Atila màu đen mang BKS 37N5-6672 không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

[9]. Về án phí:Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10]. Đối với người Ng Nh Tr là người đã cho S số điện thoại 0859549989 để Sliên lạc mua ma túy, quá trình xác minh, Tr không có mặt tại địa phương không biết đi đâu, làm gì. Khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với người sử dụng số điện thoại 0859549989 bán ma túy cho S, qua xác minh đó là V V TH, trú tại phường N H, thị xã C L, tỉnh Nghệ An. Nhưng hiện tại Th không có mặt tại địa phương, không biết đi đâu, làm gì. Khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn S 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 19 tháng 8 năm 2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015:

Tịch thu, tiêu hủy 01 gói nhỏ được gói ngoài cùng bằng bao potylen trong suốt tiếp theo được gói bằng bao bạc thuốc lá màu trắng vàng, trong cùng là chất bột màu trắng được bỏ vào phong bì của Ủy ban nhân dân xã H L dán kín mặt trước phong bì thư có ghi "Gói niêm phong vật chứng thu giữ của Trần Văn S (1986) trú tại xóm 5, xã H P, huyện H Ng, tỉnh Nghệ An vào ngày 19/8/2020 tại X 5, xã H L, huyện H Ng, Nghệ An".

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại màu đỏ đen hãng Vellcom có số thuê bao 0357803321 (đã qua sử dụng).

Trả lại cho bị cáo 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Atila màu đen hãng Yamaha mang BKS 37N5-6672.

(Chi tiết có trong Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện Hưng Nguyên và Cơ quan CSĐT Công an huyện Hưng Nguyên ngày 04 tháng 11 năm 2020).

Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2020/HSST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:58/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Nguyên - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về