Bản án 58/2020/HSST ngày 30/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 58/2020/HSST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30/9/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 52/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2020/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Lương Văn Th, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 18/4/2003 tại huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Nơi thường trú: Bản T, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lương Văn S và bà Lô Thị Gi; Vợ - Con: Chưa có; Tiền án - Tiền sự: Chưa có; Bị cáo hiện đang tại ngoại; Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Lô Thị Gi. Sinh năm 1983. Trú tại: Bản T, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. (Là mẹ đẻ của bị cáo). Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Thái Quỳnh. Trợ giúp viên pháp lý. Chi nhánh số 2 - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bị hại: Bà Lương Thị L. Sinh năm 1974. Trú tại: Bản T, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Người làm chứng: 1. Anh Thái Xuân V. Sinh năm: 1990. Vắng mặt.

2. Ông Trần Văn Ng. Sinh năm: 1970. Vắng mặt. Đều trú tại: Bản N, xã C, huyện Quỳ Châu, Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 16 giờ ngày 12/5/2020, khi đang ở nhà thì Lương Văn Th thấy một con trâu đực màu đen của gia đình bà Lương Thị L do con trai là anh Vi Văn M mới đi chăn về buộc trước cổng nhà Th. Lúc này thì Th nảy sinh ý định bắt trộm con trâu đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Th gọi điện thoại cho anh Thái Xuân V hỏi bán trâu. Quá trình trao đổi thì anh V không biết Th trộm cắp trâu mà có nên đã đồng ý mua và nói Th dắt trâu đến nhà mình. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Th đến mở dây dắt con trâu đến khu vực dốc Kèm Kho thuộc địa phận xã C thì mượn điện thoại của người đi đường gọi cho anh V vào chở trâu. Nhưng anh V không có xe nên nói với Th dắt ra địa bàn bản Nông Trang, xã Châu Bính cho anh V thì Th đồng ý và tiếp tục dắt trâu ra. Khi Th ra đến nơi thì gọi cho anh V nhưng không được. Khoảng 30 phút sau, ông Trần Văn Ng đi qua thấy Th đang dắt trâu thì có hỏi chuyện và biết Th đưa trâu ra bán cho anh V. Ông Ng có gọi cho anh V nhưng không được nên hỏi Th về nguồn gốc trâu thì Th trả lời là trâu của nhà. Nghe vậy thì ông Ng vào nhà gọi người mua trâu cho Th còn Th thì buộc trâu ở cổng ngồi đợi. Một lúc sau thì Công an xã Châu Bính đến kiểm tra thì Th khai nhận là con trâu do bản thân trộm mà có. Công an xã Châu Bính đã đưa Th cùng con trâu về trụ sở để làm việc và sau đó đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc cùng tang vật, vật chứng cho cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Châu.

Tại bản Kết luận định giá số 12/KL-HĐĐGTS ngày 26/5/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự UBND huyện Quỳ Châu kết luận: Con trâu đực mà Lương Văn Th đã trộm cắp ngày 12/5/2020 có giá trị thành tiền là 26.000.000đ (Hai mươi sáu triệu đồng).

Bà Lương Thị L trình bày: Vào ngày 12/5/2020, gia đình bà bị mất trộm 01 con trâu đực màu đen khoảng 07 năm tuổi và sau khi báo cho Công an xã C, huyện Quỳ Châu thì đến rạng sáng ngày 13/5/2020 đã làm rõ hành vi trộm cắp của Lương Văn Th. Hiện nay gia đình bà đã được nhận lại con trâu nói trên. Bà L không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ về mặt hình phạt cho bị cáo Th.

Cáo trạng số 56/CT-VKS-HS ngày 04/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu đã quyết định truy tố Lương Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự .

Tại phiên tòa, đại diện VKS thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như nội dung Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 - khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 100 BLHS. Xử phạt bị cáo từ 09 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Tịch thu tiêu hủy vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Nhất trí với tội danh và điều luật như viện dẫn của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 08 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung truy tố của Cáo trạng và không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Về sự vắng mặt của người làm chứng: Tại phiên tòa hôm nay, anh Thái Xuân V và ông Trần Văn Ng vắng mặt. Tuy nhiên, quá trình điều tra đã có đầy đủ lời khai của những người này và đã được công bố tại phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 293 BLTTHS, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Thái Xuân V và ông Trần Văn Ng.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Vào tối ngày 12/5/2020, bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 con trâu đực màu đen của bà Lương Thị L. Sau đó bị cáo đã dắt con trâu ra địa bàn bản N, xã C, huyện Quỳ Châu để tiêu thụ. Tại đây thì bị cáo bị Công an xã C kiểm tra, phát hiện và thu giữ con trâu cùng một số vật chứng liên quan.

Thấy rằng lời khai của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra là thống nhất với nhau, phù hợp với lời khai của các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa. Bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép của bà Lương Thị L 01 con trâu trị giá là 26.000.000đ (Hai mươi sáu triệu đồng). Như vậy, bị cáo Lương Văn Th đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS đúng như nội dung truy tố của Cáo trạng.

[2.2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo có đủ nhận thức để biết rằng tài sản của người khác là bất khả xâm phạm. Vì bản thân lười lao động, không có nghề nghiệp và thu nhập nên bị cáo đã có hành vi chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác nhằm phục vụ cho mục đích tiêu xài cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất an ninh trật tự trên địa bàn và gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm và lên cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng nhằm răn đe, cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ thái độ biết ăn năn hối cải. Đây là lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Người bị hại xin giảm nhẹ cho bị cáo về mặt hình phạt. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1 - khoản 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Ngoài ra, tại thời điểm phạm tội thì bị cáo chưa đủ 18 tuổi. Xét không cần thiết cách ly bị cáo mà để gia đình phối hợp với chính quyền địa phương giáo dục cũng đủ nghiêm. Vì vậy, cần áp dụng quy định tại các Điều 91 và Điều 100 BLHS để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Không khấu trừ thu nhập cá nhân và không buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt bổ sung.

[2.3] Về vật chứng: Cơ quan Công an đã thu giữ của bị cáo 01 con dao, 01 chiếc đèn pin và01 đoạn dây thừng. Đây là các vật đã cũ, hỏng. Cần tịch thu tiêu hủy.

[3] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 - khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 100 BLHS. Xử phạt Lương Văn Th 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”, Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo cho UBND xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An phối hợp cùng với gia đình quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.

- Căn cứ Điều 106 BLTTHS. Tịch thu, tiêu hủy 01 con dao, 01 đèn pin và 01 đoạn dây thừng (Tất cả có đặc điểm như mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng được lập vào hồi 09 giờ 50 phút ngày 04/9/2020 giữa cơ quan điều tra và chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu).

- Căn cứ vào điều 136 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Buộc Lương Văn Thiên phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

- Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa và người bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2020/HSST ngày 30/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:58/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về