Bản án 58/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY - TỈNH TIỀN GIANG 

BẢN ÁN 58/2020/HS-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 53/2020/TLST- HS ngày 30 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

TRẦN THỊ Đ; Sinh năm 1977; Tên gọi khác: U.

Nơi sinh: tỉnh Trà Vinh; Đăng ký hộ khẩu thường trú: khóm T, Phường A, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; CMND số 331221942; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: lớp 02/12; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Trần Văn K(đã chết) và bà: Đào Thị T; Chồng: Nguyễn Xuân B; Bị cáo có 06 con: lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 2011.

Tiền sự: Ngày 14/02/2019 bị Công an Quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 200.000 đồng về hành vi bán dâm cho người khác, bị cáo đã nộp phạt xong.

Tiền án:

+ Lần 1: Ngày 18/02/2014, bị Tòa án nhân dân thành tỉnh Vĩnh Long xử phạt 06 tnăm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2017.

+ Lần 2: Ngày 19/7/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, bị cáo chấp hành hình phạt tù từ ngày 16/9/2029 đến ngày 11/10/2019 Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long có quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thời hạn 09 tháng.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 14/5/2020 cho đến nay và có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Anh Võ Hữu P, sinh năm 1987. Vắng mặt.

Địa chỉ: Ấp T, xã H, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 22 giờ ngày 15/01/2020, anh Võ Hữu P trên đường đi làm về nhà, khi điều khiển xe mô tô đến dốc cầu Cai Lậy cũ thuộc khu phố 2, phường 2, thị xã Cai Lậy thì gặp Trần Thị Đ đang đứng đợi khách mua dâm. Anh P đến thỏa thuận giá và chở Đ đến nhà trọ Thanh Tâm thuộc khu phố 2, phường 2, thị xã Cai Lậy thuê phòng số 3; Anh P trả tiền thuê phòng 60.000 đồng, số tiền còn lại để vào túi quần. Sau khi vào phòng, anh P trả cho Đ 300.000 đồng và yêu cầu Đ cho quan hệ tình dục; Đ kêu anh P cởi quần áo ra, khi anh P cởi quần thì làm rơi số tiền 14.000.000 đồng, Đ nhìn thấy và nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trên nên kêu anh P đi tắm. Anh P để tiền và 01 điện thoại Samsung Galaxy J6+ trên giường rồi vào phòng tắm; Lúc này Đ lén lút lấy điện thoại và số tiền 14.000.000 đồng rồi đi ra khỏi nhà trọ, Đ đi đến quán nước lấy xe mô tô biển kiểm soát 84R1-0031 đã gởi trước đó rồi điều khiển về nhà ở tỉnh Vĩnh Long. Sau đó Đ bán điện thoại cho 01 người phụ nữ số tiền 1.500.000 đồng; Đ tiêu xài cá nhân hết số tiền bán điện thoại và 14.000.000 đồng lấy của anh P. Đến ngày 02/5/2020, Đ đến khu vực cầu Cai Lậy thì gặp anh P, anh P trình báo sự việc đến Công an thị xã Cai Lậy.

Tài sản thu giữ gồm: xe mô tô biển kiểm soát 84R1-0031 nhãn hiệu CITINEW số máy VHLFM152FMHV01501802, số khung RMNWCHEMN9H001802. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy đã trao trả xe nêu trên cho chị Đỗ Thị Thu Hà.

Kết luận định giá tài sản số 697 ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Cai Lậy kết luận: 01 điện thoại Samsung Galaxy J6+ trị giá 3.600.000 đồng và 01 sim điện thoại mạng Viettel trị giá 25.000 đồng. Bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho anh Võ Hữu P xong, anh P có đơn bãi nại trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Đ.

Công an thị xã Cai Lậy cũng đã ban hành Quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với Trần Thị Đ và anh Võ Hữu P về hành vi mua, bán dâm.

Tại Cáo trạng số 55/CT-VKSTXCL ngày 29/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy để xét xử bị cáo Trần Thị Đ về tội : “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự .

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân thị xã Cai Lậy giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173, Điều 38, điểm b, s khoản 1 Điều 51, 56 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Thị Đ phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, đề nghị xử phạt bị cáo Đ từ 03 năm 04 năm tù, tổng hợp hình phạt bị cáo còn phải chấp hành của bản án hình sự phúc thẩm số 82/2019-HSPT ngày 19/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.

- Bị cáo Trần Thị Đ khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện vào ngày 15/01/2020, phù hợp với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai lậy Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người bị hại, anh Võ Hữu P vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định tội danh:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Trần Thị Đ tại phiên tòa đã xác định: Vào ngày 15/01/2020, bị cáo Đ là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của anh Võ Hữu P gồm: số tiền 14.000.000 đồng, 01 điện thoại Samsung Galaxy J6+ trị giá 3.600.000 đồng và 01 sim điện thoại mạng Viettel trị giá 25.000 đồng.

Trước khi chiếm đoạt tại sản của anh P, bị cáo Đ có 02 lần tiền án nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định cáo Trần Thị Đ phạm vào tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bộc lộ bản chất tham lam, lười biếng lao động, muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động cực nhọc.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và khắc phục xong hậu quả cho người bị hại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét về nhân thân: bị cáo Đ là phần tử không có ý thức chấp hành pháp luật, nhiều lần bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính.

[4] Qua xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như xem xét nhân thân của bị cáo Trần Thị Đ; Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo Đ ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để bị cáo cải tạo bản thân thành công dân tốt, biết tôn trọng pháp luật qua đó nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

Bị cáo đã chấp hành án hình phạt tù của bản án hình sự phúc thẩm số 82/2019-HSPT ngày 19/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ được 25 ngày thì có quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù nên cần tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án hình sự phúc thẩm số 82/2019-HSPT ngày 19/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

[5] Trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, bị cáo khắc phục hậu quả, bồi thường thỏa đáng cho anh Võ Hữu P, anh P đã có đơn bãi nại trách nhiệm dân sự.

[6] Vật chứng thu giữ trong vụ án đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai lậy trao trả cho chủ sở hữu là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức Thu, miễn, giảm, Thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy đã phân tích chứng cứ xác định bị cáo Trần Thị Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt áp dụng với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm g khoản 2 Điều 173, Điều 38, điểm b, s khoản 1 Điều 51, và khoản 2 Điều 56 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/- Tuyên bố bị cáo Trần Thị Đ phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Đ 03 (ba) năm tù.

Tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành 05 tháng 05 ngày của Bản án hình sự phúc thẩm số 82/2019-HSPT ngày 19/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, buộc bị cáo Trần Thị Đ phải chấp hành hình phạt chung là 03 năm 05 tháng 05 ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/5/2020.

2/- Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3/- Quyền kháng cáo:

Bị cáo Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Anh P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:58/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về