Bản án 58/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về tranh chấp cấp dưỡng nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 58/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TRANH CHẤP CẤP DƯỠNG NUÔI CON

Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 419/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020 về việc: “Tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2020/QĐXX-ST ngày 04 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Dương Ngọc T, sinh năm 1991 Địa chỉ: Khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh B Bị đơn: Ông Trần Minh H, sinh năm 1988 Địa chỉ: Số 32, đường H, khu phố 2, phường M, thị xã B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo Đơn khởi kiện ngày 15/5/2020 và lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn bà Nguyễn Dương Ngọc T trình bày:

Bà T và ông Trần Minh H ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 215/QĐST-HNGĐ ngày 12/6/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Theo nội dung Quyết định này, bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung là Trần Minh T, sinh ngày 24/5/2010 và Trần Minh H, sinh ngày 13/10/2011. Ông Trần Minh H không phải cấp dưỡng nuôi con. Do năm 2011 đến khi ly hôn năm 2017 ông H đang chấp hành hình phạt tù nên bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Nay bà T vẫn đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các con chung và ông H đã chấp hành xong hình phạt tù nên bà T yêu cầu ông H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con để phụ giúp bà T trang trải chi phí cho việc học hành và chi phí sinh hoạt của các con chung.

Do đó, bà T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Minh H phải cấp dưỡng nuôi con là Trần Minh T, sinh ngày 24/5/2010 và Trần Minh H, sinh ngày 13/10/2011 mỗi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Tại Biên bản làm việc ngày 01/9/2020, bà T xác định đã nhận được quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ chứng minh thu nhập của ông H nhưng bà T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh thu nhập của ông H. Lý do không cung cấp được là do bà T không biết ông H hiện nay làm công việc gì và không biết mức thu nhập cụ thể của ông H hiện nay là bao nhiêu.

Tại Biên bản làm việc ngày 04/9/2020, bà T trình bày hiện tại một mình bà T trực tiếp nuôi 02 con chung. Hiện cháu T học lớp 5 trường Tiểu học T và cháu H hiện đang học lớp 4 trường Tiểu học T, phường M, thị xã B, tỉnh B. Mức chi tiêu của các con từ 3.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng tất cả đều do bà T chi trả, ông H từ khi ra tù đến nay không chu cấp cho con cái. Bà T xác định lại yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 1.000.000 đồng và cấp dưỡng nuôi cháu H mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

2. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 03/9/2020 và lời khai trong tham gia quá trình tố tụng tại Tòa án bị đơn ông Trần Minh H trình bày:

Ông H thống nhất với lời trình bày của bà T về việc ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 215/QĐST- HNGĐ ngày 12/6/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương và việc bà T được quyền nuôi hai con chung là Trần Minh Thư, sinh ngày 24/5/2010 và Trần Minh Hưng, sinh ngày 13/10/2011, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Trước yêu cầu khởi kiện của bà T ông H có ý kiến như sau:

Ông H chấp hành án phạt tù tại trại giam An Phước, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương từ năm 2012 cho đến tháng 11/2019 mới được ra tù. Từ khi ra tù cho đến nay, ông H không có việc làm ổn định. Ông H chỉ đi làm thuê một vài nơi không có lương cơ bản, không có thu nhập ổn định. Ông H không có chứng cứ chứng minh về thu nhập để nộp cho Tòa án. Ông H vẫn thăm con hàng tuần nhưng không có thu nhập để cấp dưỡng cho con. Do đó, đối với yêu cầu khởi kiện của bà T ông H chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu Trần Minh T, sinh ngày 24/5/2010 mỗi tháng 1.000.000 đồng. Còn cháu H ông H không đồng ý cấp dưỡng vì bà T cũng phải có trách nhiệm nuôi con.

* Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà T giữ nguyên yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 1.000.000 đồng và cấp dưỡng nuôi cháu H mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu T, cháu H trưởng thành đủ 18 tuổi. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà.

Bị đơn giữ nguyên ý kiến không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T, chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 1.000.000 đồng, không đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Đây là vụ án tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con, bị đơn ông Trần Minh H cư trú tại số 32, đường H, khu phố 2, phường M, thị xã B, tỉnh B. Căn cứ vào các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bà T và ông H ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 215/QĐST-HNGĐ ngày 12/6/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Theo đó, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con do bà T không yêu cầu. Bà T khởi kiện yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con mỗi con một tháng 2.000.000 đồng. Quá trình làm việc và tại phiên tòa, bà T thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 1.000.000 đồng và cấp dưỡng nuôi cháu H mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi.

Xét thấy, tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 215/QĐST-HNGĐ ngày 12/6/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã quyết định giao 02 con chung là Trần Minh T, sinh ngày 24/5/2010 và Trần Minh H, sinh ngày 13/10/2011 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con. Như vậy bà T là người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn nên có quyền khởi kiện đối với vụ án tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con. Ông H là cha của cháu T và cháu H và là người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn nên phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Việc bà T thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 1.000.000 đồng và cấp dưỡng nuôi cháu H mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là tự nguyện thay đổi yêu cầu và là quyền tự quyết định của đương sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Ông H đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 1.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc ông H phải cấp dưỡng nuôi cháu H mỗi tháng 1.000.000 đồng để đảm bảo các chi phí học hành và sinh hoạt hợp lý của cháu H. Đảm bảo quyền lợi của cháu T và cháu H việc ông H là người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là cần thiết.

Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà T đối với bị đơn ông H về việc yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 1.000.000 đồng và cấp dưỡng nuôi cháu H mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là có cơ sở chấp nhận.

[3] Về án phí nghĩa vụ cấp dưỡng: Ông H phải chịu theo quy định của pháp luật.

[4] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 35, 39, 147, 244, 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 81, 82, 83, 107, 110, 116, 117 và Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Dương Ngọc T đối với bị đơn ông Trần Minh H về việc: “Tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con”:

Ông Trần Minh H phải cấp dưỡng nuôi con là cháu Trần Minh T, sinh ngày 24/5/2010 mỗi tháng 1.000.000 (một triệu) đồng và Trần Minh H, sinh ngày 13/10/2011 mỗi tháng 1.000.000 (một triệu) đồng cho đến khi cháu T, cháu H trưởng thành đủ 18 tuổi.

Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án chưa thi hành án thì còn phải chịu khoản lãi suất tương ứng với khoản tiền và thời gian chưa thi hành án xong theo quy đinh tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi về cấp dưỡng nuôi con.

2. Về án phí về nghĩa vụ cấp dưỡng: Ông Trần Minh H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về tranh chấp cấp dưỡng nuôi con

Số hiệu:58/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về