Bản án 58/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 58/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Đại xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 280/2020/TLST – HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2020/QĐXXST–HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm: 1984 (Có mặt). Địa chỉ: ấp G, thị trấn T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

+ Bị đơn: Anh Ngô Minh T, sinh năm: 1979 (Vắng mặt). Địa chỉ: ấp 1, xã N, huyện H, tỉnh Bến Tre

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 27/4/2020, trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án và trong quá trình xét xử Nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh T chung sống với nhau vào năm 2004 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

Trong thời kỳ hôn nhân chị N và anh T chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường hay cãi vã. Chị N và anh T sống ly thân chấm dứt mọi quan hệ tình cảm vợ chồng từ cuối năm 2011 cho đến nay.

Chị N thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa. Vì vậy chị N làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị N được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị N khai, chị N và anh T có 02 người con chung tên là: Ngô Thị Ngọc Nh, sinh ngày: 19/12/2005 và Ngô Minh P, sinh ngày: 16/08/2011 hiện đang sống chung với chị N, chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung; Về nợ chung: Chị N khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, T khai chứng cứ và hòa giải cho anh T nhưng anh T không đến Tòa án để giải quyết yêu cầu xin ly hôn của chị Ngoan.

Tại phiên tòa chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Đối với anh T, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 02 đến phiên tòa xét xử, nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án không đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án:

Yêu cầu khởi kiện của chị N là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị N được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị N được tiếp tục nuôi cháu Ngô Thị Ngọc Nh, sinh ngày: 19/12/2005 và Ngô Minh P, sinh ngày: 16/08/2011 cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Ghi nhận chị N không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung: Chị N khai không có nên không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp:

Chị Nguyễn Thị N khởi kiện yêu cầu xin được ly hôn với anh Ngô Minh T và yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung. Do đó quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Theo xác nhận ngày 27/4/2020 của Công an xã N, huyện H. Anh Ngô Minh T có đăng ký thường trú tại: ấp 1, xã N, huyện H, tỉnh Bến Tre và hiện đang sinh sống tại địa phương. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại.

[3] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn anh Ngô Minh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai đến phiên tòa xét xử nhưng anh Ngô Minh T vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt anh Ngô Minh T.

[4] Về NỘI DUNG VỤ ÁN

Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh T chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 42 ngày 03/3/2008 do Ủy ban nhân dân Y, huyện K, tỉnh Sóc Trăng cấp. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh T là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Trong thời kỳ hôn nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến mâu thuẫn, mất lòng tin với nhau, chị N và anh T vẫn sống ly thân từ cuối năm 2011 cho đến nay vẫn không hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tổ chức hòa giải để tạo điều kiện cho chị N và anh T hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng những lần hòa giải anh T đều vắng mặt không có lý do. Điều đó chứng tỏ anh T đã không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân này và mâu thuẫn hai bên đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Từ những nhận định nêu trên, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh T.

Về con chung: Chị N khai, chị N và anh T có 02 người con chung tên là: Ngô Thị Ngọc Nh, sinh ngày: 19/12/2005 và Ngô Minh P, sinh ngày: 16/08/2011 hiện đang sống chung với chị N, chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án anh T không có ý kiến gì về việc nuôi con chung, hiện nay cháu Nh và cháu P đang sống chung với chị N vẫn đảm bảo tốt về thể chất lẫn tinh thần. Nhằm tránh xáo trộn cuộc sống của cháu Nhi và cháu Phú do đó giao cháu Nh và cháu P cho chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại Điều 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình: Sau khi ly hôn cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Chị N tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tài sản chung; về nợ chung: Chị N khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ghi nhận. Nếu sau này anh T có tranh chấp về tài sản chung, về nợ chung thì khởi kiện vụ án khác.

[5] Đối với lời phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án hôn nhân và gia đình: Buộc chị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị N đối với anh Ngô Minh T. Chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Ngô Minh T.

[2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị N và Ngô Minh T có 02 người con chung tên là: Ngô Thị Ngọc Nh, sinh ngày: 19/12/2005 và Ngô Minh P, sinh ngày: 16/08/2011.

Giao cháu Ngô Thị Ngọc Nh và Ngô Minh P cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Ngô Thị Ngọc Nh và Ngô Minh Ph thành niên (Đủ 18 tuổi).

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị N không yêu cầu anh Ngô Minh T phải cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.

Anh Ngô Minh T không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với chị Nguyễn Thị N.

Sau khi ly hôn, anh Ngô Minh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Anh Ngô Minh T không trực tiếp nuôi con, lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị Nguyễn Thị N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh Ngô Minh T.

Anh Ngô Minh T cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của chị Nguyễn Thị N.

Chị Nguyễn Thị N cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Ngô Minh T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì trên cơ sở lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về tài sản chung; Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị N khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ghi nhận. Nếu sau này anh Ngô Minh T có tranh chấp về tài sản chung, về nợ chung thì khởi kiện vụ án khác.

[4] Về án phí sự sơ thẩm đối với vụ án hôn nhân và gia đình: Buộc chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Nguyễn Thị N đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: 0000689 ngày 15/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại. Chị Nguyễn Thị N đã nộp đủ án phí.

[5] Về quyền kháng cáo:

Chị Nguyễn Thị N có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Ngô Minh T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân tỉnh Bến Tre giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:58/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về