Bản án 58/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 58/2019/HS-ST NGÀY 18/07/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ LÂM SẢN

Ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại trụ Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 68/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Ngọc Đ - tên gọi khác: không; sinh ngày 08 tháng 12 năm 1986, tại xã R, huyện T, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản Đ, xã R, huyện T, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Bùi Minh Đ, sinh năm 1948 và bà Trần Thị H, sinh năm 1951. Có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1985 và 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2017, con nhỏ nhất sinh tháng 7 năm 2019. Tiền án: Không; Tiền sự: 01 tiền sự về vận chuyển lâm sản trái phép. Nhân thân: Ngày 19/3/2018 bị Hạt kiểm lâm huyện Tuần Giáo ra quyết định xử phạt hành chính 9.000.000đ về hành vi vận chuyển lâm sản trái phép. Tạm giữ: Không; tạm giam: Không. Bị cáo đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/5/2019 đến nay. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1987. Nơi cư trú: Bản Đ, xã R, huyện T, tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 27 tháng 02 năm 2019, Tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang Bùi Ngọc Đ đang có hành vi vận chuyển trái phép gỗ, thu giữ của Bùi Ngọc Đ 04 (bốn) khúc gỗ me rừng, nhóm VII có khối lượng 0,045m3, không có hồ sơ, thủ tục, dấu búa kiểm lâm và tạm giữ 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA WaVe@ cũ đã qua sử dụng, loại xe nữ, màu sơn đen, biển kiểm soát 27H2-0301, số khung 129469, số máy 1330296. Tổ công tác tiến hành lập biên bản kiểm tra và đưa người cùng phương tiện về Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Quá trình điều tra, xác định: Ngày 19/3/2018 Bùi Ngọc Đ đã bị Hạt kiểm lâm huyện Tuần Giáo ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 000043/QĐ-XPVPHC ngày 19/3/2018 của Hạt kiểm lâm huyện Tuần Giáo với số tiền phạt là 9.000.000đ (chín triệu đồng) về hành vi vận chuyển lâm sản trái phép.

Bản cáo trạng số 62/CT-VKSTG ngày 01/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố bị cáo Bùi Ngọc Đông về tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản” theo điểm m khoản 1 Điều 232 Bộ luật hình sự năm 2015.

Quá trình xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Bùi Ngọc Đ khai nhận: Vào khoảng 17 giờ, ngày 25/02/2019, bị cáo điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA loại Wave@, biển kiểm soát 27H2-0301 của bị cáo cùng với Nguyễn Văn C, sinh năm 1987, cùng trú tại bản Đ, xã R huyện T đi sang bản B, xã R, huyện T để tìm mua gỗ me rừng (Nguyễn Văn C đi một xe riêng). Khi đến bản B, xã R, huyện T; bị cáo và Nguyễn Văn C gặp 02 người đàn ông không biết tên, tuổi địa chỉ tầm 20 tuổi. Bị cáo Đ và C hỏi mua gỗ me rừng của 02 (hai) người đàn ông đó, sau khi trao đổi thỏa thuận, bị cáo Bùi Ngọc Đ mua 04 (bốn) khúc gỗ me rừng với giá 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng), Nguyễn Văn C mua 05 (năm) khúc với giá 270.000đ (hai trăm bảy mươi nghìn đồng). Sau khi mua xong bị cáo Đ và Nguyễn Văn C chở gỗ về nhà bị cáo Đ để cất giấu, đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 27/02/2019 bị cáo Đ rủ Nguyễn Văn C chở gỗ ra thị trấn Tuần Giáo để tìm người thuê đóng đồ dùng sinh hoạt trong gia đình. Khi đi đến bản M, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên thì bị Tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người có nghĩa vụ liên quan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên thực hành quyền công tố, tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng truy tố. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội cùng với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có đủ cơ sở kết luận Bùi Ngọc Đ phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản” đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm m khoản 1 Điều 232, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015:

- Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc Đ từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản. Không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước 04 (bốn) khúc gỗ me rừng, nhóm VII, khối lượng 0,045m3; 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA Wave@, loại xe nữ, màu sơn đen, kiểm soát 27H2-0301, số khung 129469, số máy 1330296; kèm đăng ký mô tô, xe máy số 032618, cấp ngày 01/8/2009, tên chủ xe Lường Văn D, biển số đăng ký 27H2-0301.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo Bùi Ngọc Đông thừa nhận hành vi phạm tội như bản Cáo trạng truy tố là đúng, không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nội dung vụ án: Tại biên bản kiểm tra, thu giữ đồ vật do Tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo lập hồi 05 giờ 30 phút, ngày 27/02/2019 thể hiện đã thu giữ của bị cáo Bùi Ngọc Đ 04 (bốn) khúc gỗ me rừng, nhóm VII có khối lượng 0,045m3, không có hồ sơ, thủ tục, dấu búa kiểm lâm; thu giữ của Nguyễn Văn C 05 (năm) khúc gỗ me rừng, nhóm VII, không có hồ sơ, thủ tục, dấu búa kiểm lâm. Cùng với lời khai của bị cáo, người có nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận: Hồi 05 giờ 30 phút, ngày 27/02/2019 bị cáo Bùi Ngọc Đ đã có hành vi vận chuyển trái phép 0,045m3 gỗ me rừng thuộc nhóm VII, từ xã R ra thị trấn T, không có hồ sơ, thủ tục, dấu búa kiểm lâm. Cũng có đủ cơ sở xác định ngày 19/3/2018 bị cáo Bùi Ngọc Đ đã bị Hạt kiểm lâm huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xử phạt vi phạm hành chính 9.000.000đ (chín triệu đồng) về hành vi vận chuyển lâm sản trái phép, theo Quyết định số 000043/QĐ-XPVPHC ngày 19/3/2018, tính đến thời điểm ngày 27/02/2019 hành vi vận chuyển lâm sản trái phép, bị Hạt kiểm lâm huyện Tuần Giáo xử phạt vi phạm hành chính của Bùi Ngọc Đ chưa hết thời hạn được coi là chưa vi phạm hành chính. Như vậy hành vi vận chuyển trái phép khối lượng 0,045m3 gỗ me rừng, nhóm VII, không có hồ sơ, thủ tục, dấu búa kiểm lâm của bị cáo đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản” được quy định tại điểm m khoản 1 Điều 232 BLHS năm 2015.

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 243 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

m) Khai thác, tàng trữ, vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép gỗ hoặc thực vật rừng ngoài gỗ có khối lượng hoặc trị giá dưới mức quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm 1 khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình vi. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng của Nhà nước; ảnh hưởng đến an ninh trật tự, chính sách quản lý bảo vệ rừng tại địa phương, gây nhiều hậu quả xấu đối với môi trường tự nhiên mà pháp luật nghiêm cấm. Nhất là với tình trạng hiện nay, loại tội phạm này trên địa bàn xã Rạng Đông nói riêng, huyện Tuần Giáo nói chung đang diễn biến phức tạp và làm cạn kiệt tài nguyên rừng. Bản thân bị cáo nhận thức rõ Nhà nước nghiêm cấm khai thác, tàng trữ, vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép gỗ hoặc thực vật rừng nhưng do thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, bị cáo cần phải được xử lý nghiêm trước pháp luật, mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân bị cáo thấy rằng: Bản thân bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, đây những là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo qui định tại điểm i s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Xét hành vi phạm tội của bị cáo ít nghiêm trọng, khối lượng gỗ ít nên cần áp dụng điều 54 BLHS cho bị cáo mức hình phạt dưới khung của điều luật cũng đủ để răn đe giáo dục bị cáo.

[2] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có điều kiện kinh tế nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về vật chứng của vụ án: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 04 (bốn) khúc gỗ me rừng, nhóm VII, khối lượng 0,045m3; 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA Wave@, loại xe nữ, màu sơn đen, kiểm soát 27H2-0301, số khung 129469, số máy 1330296, kèm 01 (một) đăng ký mô tô, xe máy số 032618, cấp ngày 01/8/2009, mang tên Lường Văn Dũng, biển số đăng ký 27H2-0301.

[4] Các vấn đề khác:

- Đối với 02 người đàn ông, bị cáo khai đã bán gỗ cho bị cáo và Nguyễn Văn Chung vào ngày 25/02/2019. Do bị cáo, Nguyễn Văn C không biết họ tên, tuổi, địa chỉ ở đâu nên Hội đồng xét xử không có căn cứ xem xét xử lý.

- Đối với Nguyễn Văn C bị bắt quả tang vận chuyển lâm sản trái phép ngày 27/02/2019 là độc lập không liên quan đến Bùi Ngọc Đ và Nguyễn Văn C vi phạm lần đầu với khối lượng gỗ không đủ truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã chuyển cho Hạt kiểm lâm huyện Tuần Giáo ra quyết định xử lý hành chính bằng hình thức phạt tiền là hợp lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Hành vi tố tụng: Các Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đúng qui định của pháp luật tố tụng thể hiện được tính chính xác, khách quan của vụ án. Bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm m khoản 1 Điều 232; các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH;

[1] Tuyên bố: Bị cáo Bùi Ngọc Đ phạm tội: Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản.

[2] Hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc Đ 03 tháng tù .Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

[3] Về vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 04 (bốn) khúc gỗ me rừng, nhóm VII, khối lượng 0,045m3; 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA Wave@, loại xe nữ, màu sơn đen, kiểm soát 27H2-0301, số khung 129469, số máy 1330296, kèm 01 (một) đăng ký mô tô, xe máy số 032618, cấp ngày 01/8/2009, mang tên Lường Văn D, biển số đăng ký 27H2-0301.

[4] Án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/7/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

427
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản

Số hiệu:58/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về