Bản án 58/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THỦY, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 58/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 192/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 631/2019/QĐXX-ST ngày 08 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Bà Hà Cẩm L, sinh năm 1977; Trú tại khu vực A, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ.

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn V, sinh năm 1960; Trú tại khu vực A, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ.

Nguyên đơn và bị đơn có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1.Theo nội dung đơn xin ly hôn, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Hà Cẩm L trình bày:

Ông bà tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn va đươc Ủy ban nhân dân phường L, quận B, thành phố Cần Thơ vào năm 2006. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông V không chăm lo cho gia đình, thường xuyên nhậu nhẹt và gây nợ. Một 1 mình bà phải kiếm tiền để lo cho cuộc sống gia đình và phải trả nợ cho ông V. Mâu thuẫn kéo dài từ năm 2016 đến nay, ông V hứa với bà L nhiều lần sẽ thay đổi tính tình nhưng đến nay vẫn vậy. Bà nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Hà Thanh T(nữ), sinh ngày 15/9/2004. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa, bà L khai hiện tại bà làm thuê, thu nhập hàng tháng khoảng 5.000.000 đồng/tháng, bà có khả năng nuôi con hơn ông V, do ông V không có nghề nghiệp để lo cho gia đình.

Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn ông Huỳnh Văn V trình bày:

Ông thống nhất lời trình bày của bà L về quan hệ hôn nhân, con chung và mâu thuẫn gia đình. Tuy nhiên, do công việc làm ăn của ông bị thất bại nên ông mới mượn nợ người khác, bà L có đứng ra trả nợ cho ông. Từ năm 2016, vợ chồng không thuận hòa cho đến nay. Hiện ông vẫn còn thương vợ con nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Ông yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa, ông V khai hiện tại ông chạy xe ôm, thu nhập không ổn định, tuy nhiên nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn thì yêu cầu được nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu câu Toa an giai quy.êt Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thủy phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Về quan điểm giải quyết vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn. Chấp nhận giao con chưa thành niên cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng. Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con cũng như các bên không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Hà Cẩm L khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con chung đối với ông Huỳnh Văn V; Trú tại khu vực A, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xác định: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông V tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, quận B, thành phố Cần Thơ vào năm 2006. Hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận.

Bà L và ông V đều xác định vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông V không biết chăm lo cho gia đình, thường xuyên nhậu nhẹt và gây cảnh nợ nần. Hiện tại vợ chồng ông bà không có tiếng nói chung, không còn sự quan tâm, chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Tại phiên tòa bà L xác định cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông V không hạnh phúc. Bà không còn tình cảm vợ chồng với ông V và kiên quyết ly hôn. Xét thấy, hôn nhân vững bền, hạnh phúc phải xuất phát từ sự tự nguyện yêu thương và trách nhiệm của cả hai bên vợ chồng. Mâu thuẫn của bà L và ông V đã trầm trọng, mục đích hôn nhân giữa ông bà không đạt được, phù hợp với điều kiện cho ly hôn theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà L.

[2.2] Về con chung:

Hiện tại ông V làm nghề chạy xe ôm, thu nhập không ổn định. Bà L làm thuê, thu nhập trung bình mỗi tháng là 5.000.000 đồng. Đồng thời, con chung của ông bà là con gái đang ở độ tuổi lớn. Sau khi xem xét điều kiện nuôi con của ông bà và nguyện vọng của con chung thì xác định: Bà L có điều kiện nuôi con hơn ông V. Ngoài ra cần đảm bảo sự phát triển toàn diện của trẻ là bé gái nên giao cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, cũng như phù hợp với nguyện vọng của con chung. Do đó chấp nhận yêu cầu nuôi con của bà L.

Đảm bảo cho ông V được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung theo quy định tại các Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà L không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng của ông V.

[2.3] Về Tài sản chung, nợ chung: Đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[3]Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Cẩm L đối với bị đơn ông Huỳnh Văn V về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”.

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Hà Cẩm L ly hôn với ông Huỳnh Văn V.

2.Về con chung: Giao con chung tên Huỳnh Hà Thanh T(nữ), sinh ngày 15/9/2004 cho bà Hà Cẩm L trực tiếp nuôi dưỡng. Không buộc ông V cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho ông V, không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết do đương sự không yêu cầu.

4.Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000(Ba trăm nghìn) đồng. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp là 300.000(Ba trăm nghìn)đồng theo biên lai thu số 009854 ngày 17/6/2019 của Chi cục thi hành án Dân sự quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.  Nguyên đơn đã nộp đủ án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án(Ngày 28/11/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:58/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về