Bản án 58/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH - TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 58/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 431/2019/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 11 năm 2019 về Tranh chấp Hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị Hà Th, sinh năm 1993 HKTT: DO, phường PK, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh Trú tại: P19, T12, chung cư HG 2, đường KDV, phường SH, thành phố Bắc Ninh. Có mặt Bị đơn: Cao Văn H, sinh năm 1990 HKTT: DO, phường PK, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Có mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hà Th trình bày: Chị và anh Cao Văn H có tự nguyện tìm hiểu và tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục địa phương vào ngày 10 tháng 2 năm 2010 âm lịch nhưng chưa đăng ký kết hôn. Sau khi cưới chị sống với anh H tại khu DO, phường PK, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và đã có với nhau 01 người con. Từ tháng 10 năm 2010, cuộc sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H ham chơi không để ý chăm lo gia đình, chị và gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng anh H không thay đổi. Từ tháng 11 năm 2014 đến nay chị chuyển về sống tại nhà bố mẹ, vợ chồng mỗi người một nơi, không ai quan tâm đến ai. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không đạt được, chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Cao Văn H.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Cao Việt Hg sinh ngày 24/3/2011. Hiện cháu Hg đang ở với chị Thu. Ly hôn chị xin được nuôi cháu và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản, công nợ: Vợ chồng không có tài sản chung, không nợ ai và không có ai nợ vợ chồng nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn là anh Cao Văn H trình bày: Anh H công nhận lời khai của chị Nguyễn Thị Hà Th là đúng. Về yêu cầu ly hôn và xin được nuôi con chung của chị Nguyễn Thị Hà Th, anh đồng ý và không có đề nghị gì khác.

Về tài sản và công nợ: anh chị không có tài sản và công nợ chung nên không đề nghị giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 04/11/2019, cháu Cao Việt Hg trình bày:

Sau khi bố mẹ ly hôn, cháu Hg muốn sống với mẹ là chị Nguyễn Thị Hà Th.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng là đúng pháp luật.

Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử, xử không công nhận chị Thu và anh H là vợ chồng.

- Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Hà Th nuôi cháu Cao Việt Hg.

Cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

- Về tài sản, công nợ: Không có nên không đề cập giải quyết.

- Về án phí: Chị Thu phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và các chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hà Th và anh Cao Văn H được hai gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương và sống chung với nhau từ năm 2010. Thời điểm kết hôn chị Nguyễn Thị Hà Th chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn. Từ khi đủ điều kiện kết hôn đến nay, chị Thu và anh H không đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống chị Thu và anh H có mâu thuẫn, bất đồng quan điểm. Từ tháng 11 năm 2014 đến nay, vợ chồng anh chị sống ly than không ai quan tâm đến ai. Nay chị Thu yêu cầu ly hôn, anh H cũng có ý kiến đồng ý ly hôn đối với chị Thu. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị Thu và anh H đã trầm trọng. Căn cứ vào Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình, khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp, cần xử không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Hà Th và anh Cao Văn H.

Về con chung: Chị Thu, anh H có 01 con chung là cháu Cao Việt Hg sinh ngày 24/3/2011. Hiện nay cháu Hg đang sống cùng chị Thu. Chị Thu xin được tiếp tục nuôi cháu Hg và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Anh H đồng ý với ý kiến của chị Thu. Tại biên bản ghi lời khai ngày 04/9/2019, cháu Hg cũng trình bày muốn được ở cùng mẹ.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện nay cháu Hg đang ở cùng chị Thu ổn định. Tại biên bản lấy lời khai tại Tòa án ngày 04/11/2019, cháu Hg có nguyện vọng ở với mẹ. Xét đây là nguyện vọng chính đáng của cháu Hg, chị Thu và anh H do vậy cần giao cháu Cao Việt Hg cho chị Nguyễn Thị Hà Th trực tiếp nuôi dưỡng. Cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu do vậy không đặt ra xem xét.

Về tài sản, công nợ: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hà Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 8, Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ các Điều 147, 228, 235, 254, 262, 264, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2006 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

Khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Hà Th và anh Cao Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Cao Việt Hg, sinh ngày 24/3/200 cho chị Nguyễn Thị Hà Th nuôi dưỡng. Cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu.

Anh Cao Văn H được quyền đi lại chăm sóc con chung. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản, công nợ: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí dân sự: Chị Nguyễn Thị Hà Th phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm (Xác nhận chị Thu đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai số AA/2018/0002209 ngày 31/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Ninh).

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trọng hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

Số hiệu:58/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về