Bản án 58/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM TRỰC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 58/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 138/2018/TLST-HNGĐ ngày 17/9/2018 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2018/QĐST-HNGĐ ngày 01/11/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Vũ Văn P         Sinh năm: 1978(Có mặt)

Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định.

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H                Sinh năm: 1984 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện N, tỉnh Nam Định.

Người phiên dịch cho anh P:

Ông: Vũ Đình T                                Sinh năm: 1953(Có mặt)

Tên gọi khác: Vũ Văn T

Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định. Là bố đẻ của anh Vũ Văn P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/9/2018 được bổ sung tại biên bản lấy lời khai ngày 17/9/2018, nguyên đơn anh Vũ Văn P trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn vào ngày 03 tháng 11 năm 2006, quá trình tìm hiểu tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường không có mâu thuẫn gì. Sau hai tháng, không hiểu vì lý do gì chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống. Anh có xuống tìm chị H về để vợ chồng chung sống nhưng chị H không đồng ý. Từ năm 2007 cho đến nay vợ chồng sống ly thân. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng đã thực sự đổ vỡ không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, anh đề nghị Toà án xem xét giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.

Về con chung: Vợ chồng anh chị chưa có con chung. Vì vậy không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về  tài sản; công nợ chung: vợ chồng không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, anh Vũ Văn P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn chị Nguyễn Thị H theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, chị Hoa không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa hôm nay chị H vắng mặt.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã tuân thủ đúng, quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý

vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung: Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử: Xử ly hôn giữa anh Vũ Văn P và chị Nguyễn Thị H. Miễn án phí ly hôn cho anh P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án; Nguyên đơn anh Vũ Văn P là người khuyết tật bị câm điếc bẩm sinh, từ lúc sinh ra cho đến nay gia đình không cho đi học tại các trường dành cho người khuyết tật, chỉ có bố mẹ đẻ anh P mới biết được ký hiệu của anh. Vì vậy, căn cứ vào Điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án chấp nhận ông Vũ Đình T(Vũ Văn T) là bố đẻ của anh P là người phiên dịch cho anh P.

 [2] Anh Vũ Văn P và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau vào ngày 03 tháng 11 năm 2006, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Nam Định. Vì vậy đây là cuộc hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

 [3] Sau khi kết hôn, trong quá trình chung sống được hai tháng thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Từ năm 2007 cho đến nay vợ chồng đã ly thân, không ai quan tâm, chăm sóc gì đến ai. Nay anh P xác định tình cảm vợ chồng, giữa anh và chị H đã thực sự đổ vỡ không có khả năng hàn gắn, đoàn tụ và xin ly hôn với chị Nguyễn Thị H. Xét thấy cuộc hôn nhân giữa anh P và chị H nếu có duy trì thì mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Vũ Văn P với chị Nguyễn Thị H.

 [4] Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung. Vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

 [5] Về tài sản chung, công nợ chung: Anh P không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy không đặt ra để xem xét. Nếu sau này, chị H có yêu cầu về tài sản, công nợ chung của vợ chồng, sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

 [6] Về án phí: Anh Vũ Văn P là người khuyết tật. Vì vậy, căn cứ theo điểm đ, khoản 1Điều 12Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thuộc trường hợp miễn nộp án phí. Do đó, anh P không phải nộp án phí.

 [7] Về quyền kháng cáo: Anh Vũ Văn P có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa anh Vũ Văn P và chị Nguyễn Thị H.

2.Về án phí: Hoàn trả cho anh Vũ Văn P số tiền 300.000 đồng anh đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nam Trực theo biên lai thu số 0002090 ngày 17/9/2018.

3.Về quyền kháng cáo: Anh Vũ Văn P có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về ly hôn

Số hiệu:58/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về