TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 58/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON VÀ CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN
Ngày 20 tháng 9 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thánh phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 96/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp về ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 66/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường Đ, phường Đ1, quận L, Hải Phòng; chỗ ở: Xóm Q, xã N, huyện N1, tỉnh Nam Định; có mặt.
- Bị đơn: Anh Lê Sỹ C, nơi cư trú: Đường Đ, phường Đ1, quận L, HảiPhòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/02/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày: Chị và anh Lê Sỹ C xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đông Hải, quận Lê Chân, Hải Phòng vào ngày 02 tháng 11 năm 2006, đến nay có 01 con chung là Lê Anh M,sinh ngày 24/5/2007. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc nhưng đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng nhau về quan điểm sống, lối sống, tính cách và chênh lệch nhau về tuổi tác nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột, cãi vã lẫn nhau. Từ đó, tình C vợ chồng bị rạn nứt, xa cách, không tìm được tiếng nói chung; gia đình đã động viên, khuyên giải nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn không cải thiện được. Từ cuối năm 2008 chị T đã về nhà bố mẹ đẻ để ở và vợ chồng ly thân mỗi người một nơi từ đó cho tới nay. Đến nay, chị xác nhận mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, tình C không còn, tiếp tục cuộc sống chung cũng không mang lại hạnh phúc nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh C. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung, hiện cháu đang ở cùng với bố có cuộc sống ổn định nên chị đề nghị Tòa án giao con cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.Về án phí: Chị T nhận nộp án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.
Tại các buổi làm việc vào ngày 08/6/2018, ngày 29/6/2018; các buổi hoà giải vào ngày 24/7/2018, ngày 10/8/2018 và tại phiên tòa ngày 20/9/2018, ngày12/10/2018 anh C đều vắng mặt mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.
Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự
Về việc giải quyết vụ án: Chị T và anh C xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đông Hải, quận Lê Chân, Hải Phòng vào ngày 02 tháng 11 năm 2006 và có 01 con chung. Quá trình chung sống, đến năm 2008 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống, lối sống, tính cách không hòa hợp, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung và đã ly thân mỗi người một nơi từ cuối năm 2008 đến nay. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị T được ly hôn anh C; về con chung: Giao con chung là Lê Anh M, sinh ngày 24/5/2007 cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét; về tài sản chung: Vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; về án phí: Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
- Về tố tụng:
[1] Chị Trần Thị T khởi kiện xin ly hôn anh Lê Sỹ C. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn; bị đơn cư trú tại địa bàn quận Lê Chân,thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Lê Chân.
[2] Bị đơn anh Lê Sỹ C đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt nên theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
- Về nội dung:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Lê Sỹ C kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Giấy chứng nhận kết hôn số 76, quyển số 01, do Ủy ban nhân dân phường Đông Hải, quận Lê Chân, Hải Phòng cấp ngày 02 tháng 11 năm 2006 nên được coi là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc, đến cuối năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau về quan điểm sống, lối sống, tính cách nên tình C vợ chồng xa cách, không còn tiếng nói chung và đã sống ly thân mỗi người một nơi. Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần triệu tập các bên đến Tòa án để làm việc và tiến hành hoà giải nhưng anh C đều không có mặt; tại phiên toà ngày 20/9/2018 và ngày 12/10/2018 anh C cũng không có mặt để đưa ra quan điểm của mình về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Tiến hành thu thập chứng cứ xác M về thực trạng hôn nhân giữa chị T và anh C tại nơi cư trú và gia đình cho thấy: Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2008 do bất đồng nhau về quan điểm sống, cách sống, vợ chồng có sự chênh lệch nhau về tuổi tác dẫn đến nhiều lần xảy ra va chạm, cãi vã nhau, từ cuối năm 2008 chị T đã về nhà bố mẹ để ở và vợ chồng sống ly thân từ đó. Do vậy, việc chị T đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh C là có cơ sở nên cần chấp nhận.
[4] Xét thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh C đã thực sự trầm trọng; cuộc sống chung không thể kéo dài; mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xử cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Lê Sỹ C là phù hợp.
[5] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Lê Anh M, sinh ngày24/5/2007, chị T đề nghị Tòa án giao con cho anh C nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu M được anh C nuôi dưỡng, chăm sóc từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, hiện cháu có cuộc sống ổn định nên cần giao con cho anh C nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện, hành cảnh thực tế và phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị T không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét.
[6] Về tài sản chung: Vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. [7] Về án phí: Chị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1Điều 28; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 207; khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị T và anh Lê Sỹ C.
2. Về con chung: Giao con chung là Lê Anh M, sinh ngày 24/5/2007 cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này chị T đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân theo Biên lai thu tiền số 0005101 ngày 06 tháng 3 năm 2018.
Chị T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 58/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn
Số hiệu: | 58/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về