TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 580/2018/HC-PT NGÀY 26/12/2018 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
Trong ngày 26 tháng 12 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án Hành chính phúc thẩm thụ lý số 77/2018/TLPT-HC ngày 21 tháng 02 năm 2018 về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 34/2017/HC-ST ngày 29 tháng 11 năm 2017 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang bị kháng cáo;
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1713/2018/QĐXX-PT ngày 28 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Tô Văn H, sinh năm 1941. (Có mặt)
Nơi cư trú: tổ 3, ấp N1, xã N2, huyện R, tỉnh An Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Ông Huỳnh Văn B (Có mặt)
- Người bị kiện:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang. (Vắng mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh An Giang: Ông Phan Thanh N3 (có mặt)
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện R, tỉnh An Giang. (Vắng mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện R, tỉnh An Giang: Ông Phan Văn N4 (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ông Tô Văn H trình bày: Năm 1987 ông xin mặt bằng xạ tràm giáp xã C, đến năm 1989 toàn bộ tràm bị cháy hết, năm 1990 xã tiến hành cày đại trà đất trồng tràm cấp hết cho dân làm lúa 02 vụ.
Ông hay tin nên khiếu nại, được xã N2 cấp cho ông 02 hecta (hecta hay còn gọi là ha) đất khác tại mương X chung với cán bộ xã là 10 người với diện tích 64 hecta.
Năm 1992 xã bán hết phần đất 64 hecta cho ông Trần Văn Đ ở huyện S, vì ông Đ có đủ điều kiện làm lúa 02 vụ, trong đó có đất của ông 02 hecta.
Năm 1994 Ủy ban nhân dân huyện R ban hành Quyết định số 71 ngày 05/4/1994 thu hồi toàn bộ 64 hecta, cấp lại cho các chủ cũ vì mua bán trái phép. Nhưng xã để đến 02 năm sau là năm 1996 mới ký biên bản ngày 12/3/1996 cấp lại cho 10 hộ là 36 hecta, trong đó có ông Tô Văn H 02 hecta. 10 hộ nhận đất xong đều trả lại cho ông Đ để hợp thức hóa, chớ bán rồi không ai lấy lại. Còn 28 hecta xã yêu cầu ông H ký tên giao xã làm quỹ đất.
Như vậy dứt điểm 02 hecta ông H trồng tràm năm 1987.
Còn 02 hecta đất ông tự khai phá, thì năm 1993 xã N2 trực tiếp là ông Chau S1 lúc đó là ủy viên nông nghiệp xã có vận động mượn của ông 02 hecta này để cấp cho cán bộ Sở nông nghiệp tỉnh (vì đất ông dạng da beo) sẽ cấp cho ông 02 hecta đất khác ông đồng ý nên có nhận lại tiền cày xới của Sở nông nghiệp do ông Trần Công K đại diện Sở nông nghiệp giao tiền (con ông nhận).
Xã N2 mượn đất 02 hecta để cấp cho cán bộ Sở nông nghiệp, hứa giao 02 hecta đất khác nhưng không thực hiện, ông khiếu nại xã không giải quyết.
Đến năm 1997 Ủy ban nhân dân huyện R ban hành Quyết định số 515/QĐ-UB ngày 19/9/1997 về việc giải quyết khiếu nại của ông Tô Văn H ngụ ấp N1, xã N2, huyện R. Quyết định cho rằng năm 1993 Ủy ban nhân dân xã thu hồi 02 hecta đất khai phá của ông H và đã cấp 02 hecta đất khác cho ông H (do ông Tô Văn U, em ông H đại diện nhận), trước khi thu hồi có thương lượng với ông H và có trả tiền cày, xới và quyết định đã bác khiếu nại của ông.
Ông H không đồng ý với Quyết định số 515/QĐ-UB ngày 19/9/1997 nên tiếp tục khiếu nại. Tại Quyết định số 73/QĐ-UBND ngày 14/01/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang về việc giải quyết khiếu nại của ông Tô Văn H. Quyết định giữ nguyên Quyết định số 515/QĐ-UB ngày 19/9/1997 của Ủy ban nhân dân huyện R, bác yêu cầu khiếu nại của ông Tô Văn H.
Ông H cho rằng 02 quyết định nêu trên giải quyết khiếu nại của ông chưa xem xét toàn diện khách quan nên ông yêu cầu hủy 02 quyết định này.
Theo Công văn số 538/UBND-NC ngày 14/09/2016 của Ủy ban nhân dân huyện R về việc phúc đáp và cung cấp tài liệu trong vụ án hành chính số 06/2016/TBTL-HC ngày 21/07/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, Công văn thể hiện: Năm 1993, Ủy ban nhân dân xã N2 thu hồi của ông Tô Văn H 02 hecta đất nông nghiệp để giao cho các hộ công N viên thuộc Sở nông nghiệp canh tác, sau đó Ủy ban nhân dân xã cấp cho ông H 02 hecta đất khác. Sau khi nhận đất được cấp, ông H đã chuyển nhượng 02 hecta đất này cho hộ khác.
Năm 1995, ông H cho rằng, năm 1993 khi động viên ông giao đất, Ủy ban nhân dân xã N2 có hứa sẽ cấp lại đất khác nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện.
Ngày 12/3/1996, xã tổ chức cấp đất tại thực địa cho ông Tô Văn H khu vực 64 hecta mương X.
Ngày 19/9/1997 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện R ký Quyết định số 515/QĐ-UB, bác yêu cầu xin 02 hecta đất của ông H.
Từ những căn cứ trên Ủy ban nhân dân huyện R có ý kiến: không thống nhất với nội dung khiếu kiện của ông Tô Văn H. Kiến nghị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giữ nguyên Quyết định số 515/QĐ-UB ngày 19/9/1997 của Ủy ban nhân dân huyện R, bác yêu cầu xin lại 02 hecta đất của ông Tô Văn H.
Theo Công văn số 1150/UBND-NC ngày 15/8/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang về việc thụ lý vụ án hành chính sơ thẩm, phần kết quả thẩm tra hồ sơ thể hiện: Chính quyền địa phương thu hồi 02 hecta đất nông nghiệp của ông H tại khu vực cầu 14 để cấp cho các hộ công tác Sở nông nghiệp, sau đó đã cấp lại cho ông H 02 hecta tại khu vực 64 hecta gần mương X và phần đất này ông H đã chuyển nhượng cho ông Đ. Còn phần đất mà ông H cho rằng có tham gia trồng tràm thì thuộc vị trí khác – giáp xã C, các chứng cứ ông H cung cấp và kết quả xác minh đều không có cơ sở xác định phần đất 02 hecta ông H được cấp là có công trồng tràm tại khu vực 64 hecta gần mương X. Mặt khác, cho dù ông H có tham gia trồng tràm thì cũng không được cấp đất vì Nhà nước không có chủ trương cấp đất cho các hộ trồng tràm, do đó ông H khiếu nại cho rằng Ủy ban nhân dân xã N2 chưa cấp đổi đất khác cho ông là không có cơ sở, Ủy ban nhân dân huyện R và Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang giải quyết bác đơn khiếu nại của ông H là có căn cứ.
Tại Bản án dân sự số 34/2017/HC-ST ngày 29 tháng 11 năm 2017 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 206, Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính; khoản 2 Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Bác yêu cầu khởi kiện của ông Tô Văn H, yêu cầu hủy Quyết định số 515/QĐ-UB ngày 19/9/1997 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện R và Quyết định số 73/QĐ-UBND ngày 14/01/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí Hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo, kháng nghị theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/12/2017, người khởi kiện – ông Tô Văn H có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện, hủy hai Quyết định: Quyết định số 515/QĐ – UB ngày 19/9/1997 của Ủy ban nhân dân huyện R và Quyết định số 73/QĐ – UBND ngày 14/01/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay ông Tô Văn H vẫn giữ theo yêu cầu kháng cáo như trên.
Đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện R thì đề nghị Tòa giữ y bản án sơ thẩm.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông H thì đề nghị sửa án sơ thẩm, xử hủy các quyết định nêu trên của Ủy ban nhân dân.
Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị giữ y án sơ thẩm xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Xét đơn kháng cáo của ông Tô Văn H làm trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Xét về nội dung vụ kiện thì thấy:
Theo đơn khởi kiện của ông Tô Văn H cho rằng vào năm 1987 ông xin đất mặt bằng Xạ Tràm giáp xã C, đến năm 1989 toàn bộ Tràm bị cháy, năm 1990 xã tiến hành lấy đất rồi trồng tràm, sau đó cấp lại cho dân làm mùa 2 vụ. Năm 1992 ông khiếu nại thì Ủy ban nhân dân xã N2 cấp lại cho ông 2 hecta nằm trong 64 hecta. Sau đó ông bán phần đất này cho ông Trần Văn Đ, năm 1994 Ủy ban nhân dân huyện R có quyết định thu hồi cả 64 hecta đất nêu trên, cũng năm 1994 Ủy ban nhân dân xã cấp lại cho 10 hộ 36 hecta, trong đó có ông là 2 hecta, sau khi nhận đất thì ông giao cho ông Đ sử dụng vì trước đây ông đã bán cho ông Đ rồi, còn lại 28 hecta thì xã quản lý làm quỹ đất của xã, ngoài ra ông có 02 hecta đất nông nghiệp ở gần cầu số 14, năm 1993 ông Chau S1 lúc đó là ủy viên nông nghiệp xã có vận động gia đình ông cho mượn 02 hecta đất nêu trên để Ủy ban nhân dân xã cấp cho cán bộ Sở nông nghiệp tỉnh rồi ủy ban xã cấp lại cho ông phần đất khác cho ông nhưng Ủy ban nhân dân xã không cấp lại phần đất khác cho ông, ông khiếu nại, ngày 19/9/1997 Ủy ban nhân dân huyện R ban hành Quyết định số 515/QĐ -UB về việc giải quyết khiếu nại, theo Quyết định số 515/QĐ-UB nêu: Năm 1993 Ủy ban xã thu hồi 02 hecta đất của ông Tô Văn H để giao cho các cán bộ của Sở nông nghiệp sử dụng, đồng thời Ủy ban xã cũng giải quyết cấp 02 hecta nằm trong 64 hecta đất ở gần mương X cho ông H mà ông H đã bán cho người khác (ông Đ) nên không chấp nhận khiếu nại của ông H; không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại trên, ông H khiếu nại đến Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, ngày 11/01/2016 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành Quyết định số 73/QĐ-UBND – không chấp nhận khiếu nại của ông H, giữ nguyên Quyết định số 515/QĐ-UB của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện R, ông H khởi kiện 02 Quyết định nêu trên tại Tòa án. Tòa án nhân dân tỉnh An Giang thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.
Hội đồng xét xử xét thấy: Việc Ủy ban nhân dân xã N2 có thỏa thuận với ông Tô Văn H lấy 02 hecta đất nông nghiệp của ông H để cấp lại cho các cán bộ thuộc Sở nông nghiệp tỉnh An Giang, có xác nhận của ông Chau S1 lúc đó là cán bộ nông nghiệp của xã và ông Trần Công K đại diện cho Sở nông nghiệp tỉnh An Giang, ông K khai có trả lại tiền công đất cho ông H (BL 108).
Theo Quyết định số 71/QĐ-UB ngày 04/5/1994 của Ủy ban nhân dân huyện R thu hồi cả 64 hecta trong dự án vùng KTM Cô Tô liên quan đến 22 hộ giao cho dự án vùng KTM Cô Tô Tà Đãnh, huyện R quản lý, lập dự án trên, Ủy ban nhân dân cấp lại cho dân trong vùng dự án. Ngày 26/5/1994 Ban quản lý dự án lập biên bản thu hồi đất, không những thu hồi 64 hecta mà còn thu hồi 27 hecta đất khác nữa.
Tại Thông báo ngày 28/11/1994 do Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã N2 ông Phan Lê N xác định: Trong 64 hecta đất thu hồi theo Quyết định số 71/QĐ-UB, theo ý kiến của Ủy ban nhân dân huyện R ngày 14/7/1994 thì Ủy ban nhân dân xã sẽ giao lại 36 hecta cho 10 hộ dân có đất sản suất trước đây (trong đó có hộ ông Tô Văn H được giao lại là 02 hecta) (bút lục 93).
Theo Ủy ban nhân dân huyện R xác định tại cuộc họp giải quyết việc cấp lại đất ngày 12/3/1996 thì chỉ cấp lại cho 08 hộ dân còn lại 02 hộ dân là hộ ông Tô Văn H và hộ ông Nguyễn Văn A thì hội đồng tư vấn để lại sẽ họp giải quyết sau. Tại biên bản giải quyết tranh chấp ngày 07/01/1997 ông Chau S1 xác định: Năm 1994 chính ông là người đo 02 hecta giao cho ông H trong 64 hecta (bút lục 107), còn ông Trần Văn Đ xác định: năm 1992 ông có mua lại 02 hecta của ông H, 02 hecta đất của ông A, năm 1994 Ủy ban nhân dân huyện R phát hiện việc xã giao đất không đúng nên ra Quyết định thu hồi 64 hecta, đến ngày 12/3/1996 thì xã mới thu hồi, khi thu hồi đo đạc thực tế bằng 72,80 hecta, sau đó xã cấp lại cho 10 hộ dân 36 hecta, trong đó có 02 hecta cấp cho ông H, 02 hecta cấp cho ông A nhưng ông H ông A không nhận mà để cho ông N sử dụng (bút lục 49).
Dựa các tài liệu như trên, Hội đồng xét xử xét thấy việc ông Phan Lê N lúc đó là Phó chủ tịch xã N2 xác định việc Ủy ban nhân dân xã cấp lại 02 hecta cho hộ ông H là cấp theo ý kiến của Ủy ban nhân dân huyện R (không có văn bản thể hiện ý kiến của Ủy ban nhân dân huyện R), phía Ủy ban nhân dân huyện R xác định: tại cuộc họp ngày 12/3/1996 chỉ xét cấp lại cho 08 hộ còn 02 hộ ông H và ông A thì hội đồng tư vấn để lại. Ủy ban nhân dân xã N2 thì không có thẩm quyền xét cấp đất; Theo Ủy ban nhân dân huyện R xác định vào năm 1993 Ủy ban nhân dân xã có lấy 02 hecta đất của ông H để cấp cho một số cán bộ Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh An Giang, nên vào năm 1996 Ủy ban nhân dân huyện có cấp lại 02 hecta cho ông H tại mương X là việc cấp đổi đất mà Ủy ban nhân dân xã lấy cấp cho một số cán bộ của Sở nông nghiệp chứ không phải cấp lại đất cho chủ cũ như ông H và ông N đại diện cho Ủy ban nhân dân xã N2 trình bày.
Do Ủy ban nhân dân xã không có quyền cấp đất, Ủy ban nhân dân huyện R xác định cấp lại 02 hecta đất tại mương X cho ông H là cấp theo hoán đổi đất, nên không có cơ sở để cho rằng Ủy ban nhân dân xã N2, Ủy ban nhân dân huyện R lấy đất của ông H mà không có đổi đất khác cho ông H nên kháng cáo của ông H không có cơ sở nên không được chấp nhận.
Luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông H đề nghị không phù hợp với nhận định trên nên không được chấp nhận.
Chấp nhận theo quan điểm đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát là giữ y án sơ thẩm xử.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 của Luật tố tụng hành chính năm 2015;
- Không chấp nhận kháng cáo của ông Tô Văn H.
- Giữ y án sơ thẩm xử.
- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 206, Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính; khoản 2 Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tô Văn H đòi hủy các Quyết định như: Quyết định số 515/QĐ-UB ngày 19/9/1997 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện R và Quyết định số 73/QĐ-UBND ngày 14/01/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
- Các Quyết định còn lại của án sơ thẩm xử không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
- Ông Tô Văn H không phải nộp án Hành chính phúc thẩm vì ông thuộc trường hợp được miễn nộp án phí.
Bản án này là phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26/12/2018.
Bản án 580/2018/HC-PT ngày 26/12/2018 về khiếu kiện quyết định hành chính
Số hiệu: | 580/2018/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 26/12/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về