Bản án 57/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 57/2021/HS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2021/HSST ngày 08 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh H,sinh ngày 16/12/1982,tại Thái Bình.

Nơi cư trú:Thôn T, xã N, huyện V, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Nguyễn Văn K và bà Nguyễn Thị T; Có vợ là Lê Thị P; Có 01 con sinh năm 2014.

Tiền án: Có 01tiền án;Bản án số 83/2018/HSST ngày 30/11/2018của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình xử phạt Nguyễn Minh H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm và nộp lại số tiền thu lời bất chính ngày 25/02/2019, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/7/2019.

Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 15/01/2021 đến ngày 18/01/2021 chuyển tạm giam đến nay.Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T. Có mặt.

Người chứng kiến:

1.Ông Tăng Đình C, sinh năm 1957; Địa chỉ: Số nhà X, tổ Y, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

2. Ông Bùi Gia T, sinh năm 1950; Địa chỉ: Số nhà Z, tổ R, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 15/01/2021, Nguyễn Minh H điều khiển xe máy nhãn hiệu NAORI, biển kiểm soát 17K5 - xxxx đi từ nhà đến khu vực ngõ A, đường H, tổ C, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình với mục đích tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây H gặp và hỏi mua của một người phụ nữ, không biết tên tuổi, địa chỉ 400.000 đồng được 02 gói ma túy, bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, H cất vào túi áo khoác bên trái rồi điều khiển xe máy đi tìm chỗ để sử dụng. Đến khoảng 18 giờ 40 phút cùng ngày, khi H đi đến khu vực ngõ A, đường H, tổ B, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình thì bị tổ công tác của Công an phường Q, thành phố T yêu cầu dừng lại để kiểm tra vì nghi có liên quan đến ma túy. Trước sự chứng kiến của ông Tăng Đình C và ông Bùi Gia T, H lấy từ túi áo khoác bên trái đang mặc giao nộp cho tổ công tác 02 gói, bên ngoài đều được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, mở ra kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, H khai nhận là ma túy của H vừa mua mục đích để sử dụng cho bản thân, tổ công tác niêm phong trong phong bì dán kín, trên mép dán có chữ ký của H và những người chứng kiến. Sau đó, tổ công tác yêu cầu H và mời những người chứng kiến, đưa xe của H về trụ sở công an phường Q để làm việc. Tại đây, kiểm tra người H thu giữ tại túi áo khoác bên phải của H đang mặc 01 điện thoại di động Nokia 130 màu đen đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng và số tiền 500.000 đồng. Kiểm tra xe máy của H không phát hiện thu giữ gì. Sau đó, tổ công tác Công an phường Q, thành phố T đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và các biên bản niêm phong, quản lý đồ vật, tài sản theo quy định của pháp luật.

Kết luận giám định số 17/KLGĐMT - PC09 ngày 16/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,2576gam ( Không phẩy hai nghìn năm trăm bảy mươi sáu gam).

Tại bản cáo trạng số 59/CT-VKSTPTB ngày 08/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Bình truy tố Nguyễn Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dânthành phố T, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2021. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì chứa ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong số: 17/KLGĐMT-PC09. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Nokia 130 màu đen; 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen; 01 xe máy nhãn hiệu NAORI, màu xanh, biển kiểm soát 17K5-xxxx; và số tiền 500.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn về hành vi phạm tội của mình mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng : Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công anthành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dânthành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người chứng kiến và còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 15/01/2021, Biên bản niê m phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình lập ngày 15/01/2021; Bản kết luận giám định số 17/KLGĐMT-PC09 ngày 16/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:

Khong 18 giờ 40 phút ngày 15/01/2021, tại khu vực ngõ A, đường H, tổ B, phường Q, thành phố T, Công an phường Q, thành phố T phát hiện bắt quả tang Nguyễn Minh H có hành vi tàng trữ trong người 02 gói ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,2576gam, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…c) Methamphetamine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;… Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước ta, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo đã biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo thì thấy:Bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựlà tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự nhưng được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Áp dụngĐiều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,2082 gam ma túy, loại Heroine và toàn bộ bao gói quản lý của bị cáo được hoàn trả sau giám định được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 17/KLGĐMT - PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu NAORI, màu xanh, biển kiểm soát 17K5- xxxx, chiếc xe này là của ông Trần Văn C, sinh năm 1980, trú tại Thôn T, xã N, huyện V, tỉnh Thái Bình mua và làm thủ tục đăng ký từ năm 2006. Vào khoảng tháng 08/2019, ông C đã bán cho bị cáo Nguyễn Minh H;Xét thấy chiếc xe máy, 01 điện thoại di động Nokia 130 màu đen; 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen và số tiền 500.000 đồngđã thu của bị cáokhông liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[6] Đối với người bán ma túy: Bị cáo khai mua ma túy củamột người phụ nữ tại khu vực ngõ A, đường H, tổ C, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình, nhưng không biết tên, địa chỉnên không có căn cứ điều tra, xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47;Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2021. [3].Về xử lý vật chứng:

[3.1].Tịch thu tiêu hủy 0.2082 gam ma túy, loại Heroine và toàn bộ bao gói thu giữ của bị cáo được hoàn trả sau giám định được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 17/KLGĐMT - PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

[3.2].Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Nokia 130 màu đen; 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen; 01 xe máy nhãn hiệu NAORI, màu xanh, biển kiểm soát 17K5-xxxx và số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng)nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng có đặc điểm như trong Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố T, tỉnh Thái Bình ngày 09/4/2021).

[4]. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 22/4/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:57/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về