Bản án 57/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 57/2020/HS-ST NGÀY 30/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo: Lê Quốc T - sinh năm 1988; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 26, phường Đông Ph, thành phố LC, tỉnh LC; chỗ ở hiện nay: phường Long X, thị xã KM, tỉnh HD; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Lê Thiếu N - sinh năm 1953 và bà Nguyễn Thị Th - sinh năm 1956; Có vợ là Hoàng Kim V - sinh năm 1990 (đã ly hôn), có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 29/6/2020 đến ngày 02/7/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Hải Dương từ ngày 02/7/2020 đến nay. Có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Anh T – sinh năm 1984 Trú tại: Tổ 26, phường Đông Ph, thành phố LC, tỉnh LC Vắng mặt

* Người làm chứng:

- Anh Đỗ Văn H – sinh năm 1977 Trú tại: Thị trấn Phú Th, huyện KT, tỉnh HD

- Anh Phan Văn D – sinh năm 1985 Trú tại: Thôn Phong N, xã Bình D, huyện KT, tỉnh HD Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thời gian đầu tháng 6/2020, Lê Quốc T đến thuê trọ ở khu dân cư Ngư U, phường Long X, thị xã Kinh Môn, Hải Dương để tìm việc làm. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 29/6/2020, Toản điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave &, biển số 25B1-642.31 đi đến khu vực đường tàu thuộc thị trấn Phú Thái, huyện KT, tỉnh HD mua của một người đàn ông không rõ tên và địa chỉ 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng. Sau đó, T cất giấu túi ma túy mua được dưới lớp vải nỉ bên trong chiếc mũ bảo hiểm đang đội trên đầu rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà trọ. Hồi 20 giờ cùng ngày, khi T đi đến đường Thanh N, khu An Th, thị trấn Phú Th, huyện KT thì bị tổ công tác thuộc Công an huyện Kim Thành phối hợp với Công an thị trấn Phú Th kiểm tra, T tự nguyện lấy 01 túi nilon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng ở bên trong chiếc mũ bảo hiểm giao nộp cho lực lượng công an, T khai nhận đó là ma túy đá do T mua về mục đích để sử dụng. Lực lượng công an đã tiến hành quản lý chiếc mũ bảo hiểm và chiếc xe mô tô biển số 25B1-642.31 nêu trên.

Tại bản Kết luận giám định số 315/KLGĐ-PC09 ngày 02/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Lê Quốc Toản, gửi đến giám định có khối lượng 0,288 gam, là ma túy loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định gồm 0,200 gam Methamphetamine được niêm phong số 315/KLGĐ-PC09.

Tại bản cáo trạng số: 57/CT-VKS ngày 07/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Lê Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Lê Quốc T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Quốc T từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 29/6/2020.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu cho tiêu hủy 0,200 gam ma túy Methamphetamine đã niêm phong trong phong bì số: 315/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương được hoàn lại sau giám định và 01 chiếc mũ bảo hiểm loại nửa đầu; Trả lại anh Lê Anh Th 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave &, biển số 25B1-642.31. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Lê Quốc T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lê Quốc T khai nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Tòa án giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Lê Quốc T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 20 giờ ngày 29/6/2020, tại đường Thanh N, khu An Th, thị trấn Phú Th, huyện KT, tỉnh HD, Lê Quốc T có hành vi cất giấu trái phép 0,288 gam ma túy loại Methamphetamine trong chiếc mũ bảo hiểm đang đội trên đầu với mục đích để sử dụng, thì bị Tổ công tác thuộc Công an huyện Kim Thành phối hợp với công an thị trấn Phú Th bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lê Quốc T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội phạm trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, còn là nguyên nhân làm lan truyền tệ nạn ma tuý và phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác, cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi cố ý đã gây ra và phải chịu một hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về các biện pháp tư pháp: Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ chất bột dạng cục màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine và gửi đi giám định. Sau khi giám định, cơ quan giám định hoàn lại mẫu vật sau giám định là 0,200 gam Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy bị Nhà nước cấm lưu hành, nên tịch thu cho tiêu hủy.

[6] Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo Lê Quốc T khai mua của một người đàn ông không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ. Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để xác minh nên Tòa án không xét.

[7] Đối với chiếc mũ bảo hiểm của bị cáo, xác định trong quá trình đi mua ma tuý bị cáo đã dùng để đựng ma tuý và bị cáo T xác định chiếc mũ bảo hiểm đã cũ, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu cho tiêu huỷ là phù hợp.

[8] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave, biển số 25B1- 642.31 theo lời khai ban đầu của bị cáo khai là xe của bị cáo nhưng sau đó bị cáo xác định là xe mượn của anh trai là Lê Anh Th – sinh năm 1984, trú tại: Tổ 26, phường Đông Ph, thành phố LC, tỉnh LC và anh Th khai là xe của anh Th. Nhưng bị cáo cũng như anh Th không đưa ra được căn cứ gì chứng minh là xe của anh Th, hồ sơ tài liệu thể hiện giấy tờ đăng ký xe và các giấy nộp tiền mua bán xe đều mang tên bị cáo T. Do vậy xác định chiếc xe mô tô trên là xe của bị cáo T và không phải là vật chứng của vụ án nên cần trả lại cho bị cáo T là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo bị kết luận phạm tội, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Quốc T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Lê Quốc T 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 29/6/2020.

3. Về các biện pháp tư pháp:

Tch thu cho tiêu hủy 0,200 gam Methamphetamine đã được niêm phong trong phong bì số: 315/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, được hoàn lại sau giám định và 01 chiếc mũ bảo hiểm loại nửa đầu.

Trả lại bị cáo Lê Quốc T 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave &, biển số 25B1-642.31.

(Vật chứng được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, có đặc điểm theo như Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 22/10/2020 giữa Công an huyện Kim Thành và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành).

4. Về án phí: Bị cáo Lê Quốc T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:57/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về