TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 57/2020/HSST NGÀY 28/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28/10/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2020/TLST-HS ngày 08/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2020/QĐXXST-HS ngày 14/10/2020, đối với bị cáo:
Đào Thanh K, sinh năm 1983; nơi sinh: xã T, huyện B, tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện B, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Thanh H (đã chết) và bà Nguyễn Thị C; vợ: Phạm Thị C (đã ly hôn); con: Có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; đặc điểm nhân thân: Ngày 27/4/2009 TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 30 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; ngày 19/10/2012 TAND tỉnh Hà Nam xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; ngày 07/5/2015 TAND huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai xử phạt 26 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05/8/2020, chuyển tạm giam từ ngày 14/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam. Có mặt.
* Bị hại: - Anh Trần Mạnh N, sinh năm 1983; địa chỉ cư trú: Thôn B, xã T, huyện B, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.
- Ông Trần Đức L, sinh năm 1962; địa chỉ cư trú: Thôn B, xã T, huyện B, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.
* Người làm chứng: - Bà Trần Thị L. Vắng mặt.
- Anh Trần Quốc S. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 04/8/2020, Đào Thanh K đi bộ từ chỗ ở ra đường thôn B, xã T theo hướng Lý Nhân - Phủ Lý với mục đích thấy ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi qua nhà anh Trần Mạnh N, K phát hiện thấy cửa cuốn không đóng, bên trong nhà có 01 chiếc xe đạp điện màu đen trắng, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện của xe. Quan sát xung quanh không có ai nên K đi vào trong nhà anh N, dắt chiếc xe đạp điện ra ngoài và điều khiển xe đi đến nhà bà Trần Thị L ở thôn 5 C, xã B, huyện B, K hỏi vay số tiền 400.000 đồng và nói sẽ để lại chiếc xe đạp điện để làm tin, bà L đồng ý nhận xe và đưa cho K số tiền 400.000 đồng, K cầm tiền rồi mang đi tiêu xài cá nhân. Đến khoảng 3 giờ 30 phút ngày 05/8/2020, K tiếp tục đi bộ trên đoạn đường liên thôn thuộc thôn B, xã T theo hướng Lý Nhân - Phủ Lý với mục đích trộm cắp tài sản, khi đi đến nhà ông Trần Đức L, K nhìn thấy cổng nhà ông L chỉ khép hờ không khóa, cạnh hiên nhà có 01 chiếc xe đạp điện màu đen, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện của xe. Quan sát xung quanh không có ai nên K đi vào trong sân nhà ông L dắt chiếc xe đạp điện ra ngoài đường và điều khiển xe đạp điện đi về căn nhà bỏ không của bà Đào Thị L (là bác ruột của K) ở thôn C ngủ. Đến khoảng 11 giờ ngày 05/8/2020, K điều khiển chiếc đạp điện màu đen đi đến nhà bà L và nói muốn đổi lại chiếc xe đạp điện màu đen trắng mà K đã gửi trước đó. Bà L đồng ý và dắt chiếc xe đạp điện màu đen trắng ở trong sân dựng ra ngoài đường còn K dắt chiếc xe đạp điện màu đen đi vào dựng ở trong sân nhà bà L. Sau khi đổi xe xong, K đi bộ ra gần đó mua một số đồ dùng sinh hoạt cá nhân còn chiếc xe đạp điện vẫn được dựng ở ngoài đường. Lúc này anh Trần Mạnh N cùng anh Trần Quốc S (là con trai của ông L) đều trú tại thôn B, xã T, huyện B đang đi tìm xe đạp điện bị mất trộm thì phát hiện chiếc xe đạp điện màu đen trắng của anh Nghĩa ở ngoài đường trước cửa nhà bà L. Khi K quay lại thấy anh N và anh Sự đang đứng gần chiếc xe đạp điện, do sợ bị phát hiện việc trộm cắp tài sản nên K đã bỏ đi. Sau đó anh N đã trình báo sự việc với Công an xã T. Công an xã T phối hợp với Công an xã B tiến hành thu giữ chiếc xe đạp điện màu đen trắng tại lề đường trước cửa nhà bà L và báo cáo sự việc với Công an huyện B. Cơ quan CSĐT - Công an huyện B đã triệu tập K đến trụ sở UBND xã T làm việc và ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Thanh K.
* Vật chứng đã thu giữ:
- 01 xe đạp điện màu sơn đen - trắng, yên xe bọc da màu xanh - đen, khung và thân xe có chữ “MOMENTM” do Công an xã T phối hợp cùng Công an xã B thu giữ tại đoạn đường ĐT491 thuộc địa bàn thôn 5 C, xã B, huyện B và bàn giao cho Công an huyện B xử lý.
- 01 xe đạp điện màu sơn đen, phần nhựa hai bên thân xe có dòng chữ “SUPER MAX” do Cơ quan CSĐT - Công an huyện B thu giữ tại nhà bà Trần Thị L; trú tại: Thôn 5 C, xã B, huyện B.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 25/KL-HĐĐG ngày 05/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Lục kết luận: “Trị giá của 02 chiếc xe như sau: 01 (một) chiếc xe đạp điện đã qua sử dụng, màu sơn đen, loại xe không phải đăng ký, phần nhựa hai bên thân xe có dòng chữ “SUPER MAX”, phần đuôi xe bị gãy một đoạn là: 2.100.000 đồng; 01 (một) chiếc xe đạp điện đã qua sử dụng, màu sơn đen - trắng, loại xe không phải đăng ký, yên xe có màu xanh và đen. Khung và thân xe có chữ “MOMENTM” là: 2.200.000 đồng. Tổng cộng: 4.300.000 đồng (Bốn triệu ba trăm nghìn đồng)”.
Tại bản cáo trạng số 58/CT-VKS-SH ngày 07/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo Đào Thanh K về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố K và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Đào Thanh K phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt bị cáo K từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo Đào Thanh K khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình như Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người bị hại, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập.
[3] Về tội danh: Hành vi lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của anh Trần Mạnh N và ông Trần Đức L, lén lút lấy trộm 01 chiếc xe đạp điện trị giá 2.200.000 đồng và 01 xe đạp điện trị giá 2.100.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 4.300.000 đồng vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 04/8/2020 và vào khoảng 03 giờ 30 phút ngày 05/8/2020, tại khu vực thôn B, xã T, huyện B, tỉnh Hà Nam của bị cáo Đào Thanh K đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt: Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân; bản thân bị cáo ngày 27/4/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 30 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; ngày19/10/2012 Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; ngày 07/5/2015 Tòa án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai xử phạt 26 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa đổi bản thân, tu trí làm ăn mà lại nghiện ma túy và có hành vi trộm cắp 01 xe đạp điện của anh N và 01 xe đạp điện của ông L để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng và chi tiêu cá nhân, thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Song xét bị cáo thành khẩn khai báo nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy tại biên bản xác minh ngày 06/8/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục thì bị cáo đang ở nhờ nhà bà Đào Thị L (là bác họ của bị cáo) và không có tài sản gì, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Anh Trần Mạnh N và ông Trần Đức L đã nhận lại xe đạp điện và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra xem xét.
[8] Về các tình tiết khác: - Đối với 01 xe đạp điện màu sơn đen - trắng, khung và thân xe có chữ “MOMENTM” và 01 xe đạp điện màu sơn đen, phần nhựa hai bên thân xe có dòng chữ “SUPER MAX” là tài sản hợp pháp của anh Trần Mạnh N và ông Trần Đức L. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Bình Lục đã trả lại cho anh N và ông L là phù hợp với quy định của pháp luật.
- Đối với số tiền 400.000 đồng mà bị cáo K vay của bà Trần Thị L, bà L không yêu cầu K phải trả lại số tiền trên nên không đặt ra xem xét.
- Quá trình điều tra xác định ngày 04/8/2020, bị cáo Đào Thanh K mang chiếc xe đạp điện đã trộm cắp của anh Trần Mạnh N đến đưa cho bà L giữ để vay số tiền 400.000 đồng; ngày 05/8/2020 Đào Thanh K lại mang chiếc xe đạp điện trộm cắp được của ông Trần Đức L đến nhà bà L để đổi lấy chiếc xe đạp điện mà bị cáo đã để lại vào ngày 04/8/2020; bà L không biết những chiếc xe đạp điện này do K phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý.
[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo K phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Đào Thanh K phạm tội “Trộm cắp tài sản".
2. Xử phạt bị cáo Đào Thanh K 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 05/8/2020).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đào Thanh K phải nộp 200.000 đồng.
Án xử công khai báo cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; báo cho người bị hại là anh N, ông L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã T, huyện B, tỉnh Hà Nam.
Bản án 57/2020/HSST ngày 28/10/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 57/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về