Bản án 57/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 57/2020/HS-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 21 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 65/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2020 đối với:

1.1. Bị cáo Triệu Văn S, sinh ngày 21 tháng 6 năm 2001, tại Huyện L, tỉnh Yên Bái.

Nơi cư trú: Thôn 13, xã Q, Huyện L, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Dao; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Triệu Văn P, sinh năm 1979 và bà Triệu Thị H, sinh năm 1980; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 31/01/2020, bị Công an xã Q phạt tiền 2.500.000 đồng vì ngày 05/11/2019 có Hànhvi cố ý xâm hại sức khỏe của người khác (Quyết định xử phạt vi phạm Hànhchính số: 02/QĐ-XPHC), ngày 22/5/2020 bị Công an xã K, Huyện L phạt tiền 750.000 đồng do có Hànhvi đánh nhau (Quyết định xử phạt vi phạm Hànhchính số: 08/QĐ-XPHC); bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. Có mặt.

1.2. Người bào chữa cho bị cáo Triệu Văn S: Luật sư Nguyễn Đức D thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý NNh nước tỉnh Yên Bái. Có mặt.

2.1. Bị hại: Hoàng Văn Q, sinh ngày 04/3/2005 (đã chết) 2.2. Người đại diện hợp pháp của bị hại đồng thời là người có quyền lợi liên quan: Anh Hoàng THànhĐ, sinh năm 1979.

Nơi cư trú: Thôn Bản Ch, xã Tr, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

3.1. Chị Triệu Thị Th, sinh năm 1984.

Nơi cư trú: Thôn Bản Ch, xã Tr, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

3.2. Anh Triệu Văn P, sinh năm 1979.

Nơi cư trú: Thôn 13, xã Q, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

3.3. Bà Vũ Thị A, sinh năm 1960;

Trú tại: Thôn 10, xã Q, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

4. Những người làm chứng:

4.1. Anh Triệu Văn I, sinh năm 2002;

Trú tại: Thôn 10, xã Q, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Có mặt

4.2. Anh Đặng Văn M, sinh năm 2000;

Trú tại: Thôn 12, xã Q, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

4.3. Anh Lường Văn X, sinh năm 2000;

Trú tại: Thôn T, xã M, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

4.4. Anh Hoàng Văn C, sinh ngày 20/8/2005;

Trú tại: Thôn Lâm Thượng, xã Y, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

4.5. Anh Triệu Văn Nh, sinh năm 2001;

Trú tại: Thôn 12, xã Q, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

4.6. Chị Lý V, sinh ngày 07/4/2006;

Trú tại: Thôn 01, xã Q, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

4.7. Anh Bàn Văn E, sinh năm 2002;

Trú tại: Thôn 13, xã Q, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

4.8. Anh Lương Hồng N, sinh năm 2001.

Nơi cư trú: Thôn G, xã Tr, Huyện L, tỉnh Yên Bái. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ ngày 14/7/2020, Triệu Văn S, Đặng Văn M và Triệu Văn I cùng trú tại xã Q, Huyện L rủ nhau đến quán bia, trà sữa Ng thuộc thôn 6, xã Q để uống bia. Khi uống bia tại quán thì nhóm của S gặp nhóm của Lường Văn X trú tại xã Mai S, Huyện L, Hoàng Văn C, Hoàng Thị R cùng trú tại xã Y, Huyện L, Bàn Văn E, Lý Văn U, Triệu Văn Nh cùng trú tại xã Q đến uống nước tại đó. Ngoài ra, trong quán còn có Lương Hồng N, Hoàng Văn Q và một số người nữa cũng đến uống nước và ngồi ở các bàn khác. Trong lúc uống bia, Nh nói với S nội dung: Bàn bên cạnh có 02 thanh niên lạ lườm Nh, tý về xem là ai. Khoảng 21 giờ 20 phút cùng ngày anh X, anh C và chị R ra về thì S và Nh cũng đứng dậy đi theo sau. S hỏi anh X: “Lúc nãy anh lườm bạn em à ?”. Anh X trả lời là: “Không” thì S đấm vào mặt, vào bụng anh X. Thấy S đánh anh X thì Nh cũng dùng tay đánh anh C. Thấy S và Nh đánh anh X và anh C thì M từ quán đi ra can không cho S và Nh đánh anh X và anh C. Sau đó, Nh khoác vai anh X đưa anh X đi chỗ khác và bảo anh X về. Trong số những người ra xem và can ngăn không cho S đánh anh X và anh C có Lương Hồng N và Hoàng Văn Q đều ở xã Tr, Huyện L. N nói với S: “Tha cho nó. Nó còn bé, đánh nó làm gì”. S trả lời: “Việc của mày à ! Mày là tNg nào ?”. N nói: “Tao là N chó. Có giỏi xuống km 53 nói chuyện”. Thấy vậy, S và Nh lao vào dùng tay đánh anh N. Khi S đang xô xát với anh N thì anh Q lao vào đấm và giằng co với S. M bị anh N đấm một phát vào đầu nên M ra chỗ biển quảng cáo của quán lấy ống điếu bọc kim loại định vụt anh N thì S giật lấy ống điếu từ tay M rồi xông vào đánh N. N giơ tay lên đỡ và chạy lùi vào trong quán. Cùng lúc này, cháu Lý V là nhân viên bán hàng tại quán đã yêu cầu S trả lại điếu nhưng S không nghe. S cầm điếu bằng tay phải đi về phía anh Q lúc này đang đứng trước cửa quán rồi bất ngờ vụt một phát theo hướng từ dưới lên trên, từ phải qua trái trúng vào vùng đầu anh Q. Theo đà, S vụt một phát nữa theo hướng từ trên xuống dưới nhưng không trúng. Bị S đánh, anh Q bỏ chạy về hướng quốc lộ 70. Chị Vũ Thị A là chủ quán quát bảo S dừng lại nhưng S vẫn dồn đuổi và dùng ống điếu đánh vào đầu, vào người khiến anh Q ngã xuống đường. Khi anh Q đã ngã xuống đường, S vẫn dùng điếu vụt 02 phát nữa vào đầu anh Q. Một lúc sau, Nh cũng chạy đến chỗ anh Q nằm và đá một phát vào vai anh Q rồi quay lại quán. Phát hiện anh N đang ở cửa quán, S cầm điếu, M cầm chổi đuổi đánh anh N nhưng anh N chạy thoát. Sau đó, S bảo Nh đưa về. Khi đi qua chỗ anh Q nằm, Nh dùng chân đá anh Q một phát nữa nhưng không trúng và làm tuột dép khỏi chân. Khi Nh dừng xe để nhặt dép thì S vứt lại ống điếu tại đó. Anh Q được mọi người đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong tại Trạm Y tế xã Q.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số: 56/TT-PC 09 ngày 31/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái đã kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Một số vết tổn thương sây sát da, sưng nề, bầm tím dưới da vùng: Đầu, mặt, lưng, tay trái, chân phải.

- Tổ chức dưới da, cơ tương ứng các vết thương vùng đầu, mặt bầm dập, tụ máu. Tổ chức não phù nề làm mờ các rãnh cuộn não, chảy máu lan tỏa màng mềm, tụ máu dưới màng cứng cả hai bán cầu đại não, nhu mô não bầm dập.

2. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não kín: Chảy máu lan tỏa màng mềm, tụ máu dưới màng cứng, dập não.

Tại Cáo trạng số: 73/CT-VK S-P2 ngày 26/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái đã truy tố bị cáo Triệu Văn S về tội “Giết người” theo các điểm b, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Triệu Văn S phạm tội “Giết người”.

Áp dụng các điểm b, n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Triệu Văn S từ 19 năm đến 20 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu huỷ số vật chứng không còn giá trị sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Cần công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo S và gia đình bị hại theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự và Điều 591 Bộ luật Dân sự.

Người bào chữa cho bị cáo S đã tiến hành tranh tụng có nội dung được tóm tắt như sau: Về cơ bản, người bào chữa nhất trí với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, về việc áp dụng pháp luật và đường lối giải quyết vụ án. Tuy nhiên, người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử lưu tâm việc bị cáo tuổi đời còn trẻ, lại là người dân tộc thiểu số sinh ra và lớn lên tại địa bàn vùng cao đặc biệt khó khăn, trình độ nhận thức về pháp luật có phần hạn chế; sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã tác động để người thân bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại. Từ những phân tích trên, người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Triệu Văn S phạm tội “Giết người”.

Áp dụng các điểm b, n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Triệu Văn S với mức án 16 năm tù là phù hợp.

Quan điểm của Viện kiểm sát về trách nhiệm dân sự, về việc xử lý vật chứng là phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Bị cáo S nhất trí với lời bào chữa của Luật sư D, không bổ sung gì thêm. Khi nói lời sau cùng bị cáo xin lỗi gia đình bị hại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình.

Anh Hoàng Thành Đ và chị Triệu Thị Th yêu cầu bị cáo S còn phải bồi thường tiền mai táng phí, tiền tổn thất về tinh thần với số tiền tổng cộng là 163.920.000 đồng. Yêu cầu trên của anh Đ và chị Th được bị cáo S chấp nhận.

Anh Triệu Văn P tự nguyện bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo S và không yêu cầu bị cáo S phải hoàn lại 35.000.000 đồng.

Chị Vũ Thị A là chủ quán Ng có ý kiến không nhận lại chiếc điếu cày và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện cho bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về Hànhvi, quyết định của cơ quan tiến Hànhtố tụng, người tiến Hànhtố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Triệu Văn S khai: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 14/7/2020, tại quán Ng thuộc thôn 6, xã Q, Huyện L, bị cáo đã dùng một chiếc điếu dùng để hút thuốc lào dài 57 cm, đường kính ống điếu 5 cm đánh nhiều nhát vào đầu, vào người anh Hoàng Văn Q khiến anh Q khi đó mới 15 tuổi, 04 tháng 10 ngày bị chấn thương sọ não dẫn đến tử vong. Lời nhận tội của bị cáo S phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, phù hợp với kết luận giám định pháp y về tử thi và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo S là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tước đoạt tính mạng của người khác là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì mẫu thuẫn nhỏ mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện nên việc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố Triệu Văn S về tội “Giết người” theo các điểm b, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trái phép quyền được sống của người khác, gây nên nỗi đau thương, mất mát không thể bù đắp nổi cho thân nhân của người bị hại. Mặt khác, từ tháng 01 đến tháng 5/2020, bị cáo có 02 tiền sự đều về hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác lại tiếp tục phạm tội với hai tình tiết định khung tăng nặng nên cần phải có mức hình phạt thật tương xứng mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, đồng thời đảm bảo việc răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét việc bị cáo tuổi đời còn trẻ, lại là người dân tộc thiểu số, sinh ra và lớn lên tại xã vùng cao đặc biệt khó khăn nên nhận thức về pháp luật có phần hạn chế; sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động để gia đình bồi thường được một phần thiệt hại cho gia đình bị hại nên cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Anh Đ và chị Th là bố mẹ đẻ của bị hại Q yêu cầu bị cáo phải bồi thường tiền mai táng phí và bồi thường tổn thất về tinh thần với số tiền tổng cộng là 198.920.000 đồng. Do anh P là bố của bị cáo S đã bồi thường được 35.000.000 đồng nên anh Đ và chị Th yêu cầu bị cáo còn phải bồi thường thêm 163.920.000 đồng. Bị cáo S đã nhất trí bồi thường như mức anh Đ và chị Th yêu cầu. Thỏa thuận trên của anh Đ, chị Th và bị cáo S là tự nguyện, phù hợp với khoản 2 Điều 48 Bộ luật Hình sự, phù hợp với khoản 2 Điều 591 Bộ luật Dân sự nên cần được công nhận.

[5] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu, tiêu huỷ toàn bộ số vật chứng do không còn giá trị sử dụng.

[6] Do bị cáo còn phải bồi thường cho anh Đ, chị Th với số tiền tổng cộng là 163.920.000 đồng nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 163.920.000 đồng x 5 % = 8.196.000 đồng. Ngoài ra, bị cáo còn phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Trong vụ án này còn có Triệu Văn I, Đặng Văn M và Lương Hồng N có tham gia vào việc đánh nhau. Tuy nhiên, khi đánh nhau với N và Q giữa S, M và Nh không có sự bàn bạc, thống nhất gì. Nh và M không xúi giục, kích động S đánh N và Q. M không đưa mà S giật ống điếu từ tay M. Việc S dùng ống điếu đánh N và Q là do bột phát nên M và Nh không đồng phạm với bị cáo S về tội “Giết người”. Hành vi đánh nhau của M, Nh và N là vi phạm pháp luật nhưng chưa đủ căn cứ để xử lý về hình sự nên Công an xã Q, Huyện L ra Quyết định xử phạt hành chính là phù hợp, cần được chấp nhận.

[8] Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại và những người có quyền lợi liên quan được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Triệu Văn S phạm tội “Giết người”.

2. Áp dụng các điểm b, n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Triệu Văn S 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 2 Điều 48 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 591 Bộ luật Dân sự: Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo S và anh Hoàng Thành Đ và chị Triệu Thị Th tại phiên tòa như sau: Bị cáo Triệu Văn S còn phải bồi thường cho anh Đ và chị Th 163.920.000 (một trăm sáu mươi ba triệu, chín trăm hai mươi nghìn) đồng.

Kể từ ngày anh Đ và chị Th có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bị cáo S còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án với mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự.

4. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 chiếc điếu cày (điếu hút thuốc lào) dài 57 cm, đường kính ống điếu 5 cm. Toàn bộ ống điếu được bọc bằng kim loại màu trắng, bạc;

+ 01 (một) phong bì thư, một mặt có ghi “Video thu giữ từ đầu ghi hình USION của nhà anh Trần Văn U trong vụ giết người xảy ra ngày 14/7/2020;

+ 01 (một) phong bì thư, một mặt có ghi “Mẫu máu thu giữ tại hiện trường vụ giết người xảy ra ngày 14/7/2020 tại thôn 6, xã Q, Huyện L, tỉnh Yên Bái”;

+ 01 (một) phong bì thư, một mặt có ghi “Mẫu máu, tóc thu của tử thi Hoàng Văn Q, sinh năm 2005 vào ngày 15/7/2020 tại Trạm Y tế xã Q, Huyện L, tỉnh Yên Bái.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a và điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Triệu Văn S phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, án phí hình sự sơ thẩm và 8.196.000 (Tám triệu, một trăm chín mươi sáu nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

6 – Về quyền kháng cáo: Bị cáo Triệu Văn S, anh Hoàng Thành Đ và những người có quyền lợi liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

7. Quyền về thi hành án dân sự: Người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hànhhán được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

405
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội giết người

Số hiệu:57/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về