Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, nuôi con 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 57/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 558/2020/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 73/2020/QĐST – HNGĐ ngày 24/12/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị T, sinh năm 1995 ĐKHKTT: Thôn C, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. (Nay là thôn Cập Thượng, xã Tiền Tiến, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương).

Trú tại: Xóm 6, xã Th, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Mai Văn Đ, sinh năm 1996 ĐKHKTT; trú tại: Thôn C, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. (Nay là thôn C, xã Tiền T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương). (Vắng mặt).

- Người làm chứng:

Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1963 Địa chỉ: Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt). Bà Bùi Thị N ( mẹ đẻ chị T) Địa chỉ: Xóm 6, xã Th, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn chị Bùi Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Mai Văn Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương (nay là xã T, thành phố Hải Dương) vào ngày 18/10/2018. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Đ không chịu làm ăn, không tập trung vào công việc mà thường xuyên đi chơi qua đêm. Chị đã nhiều lần khuyên bảo anh Đ nhưng anh Đ không thay đổi, từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Vì không chịu đựng được tính cách của anh Đ nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở xã Th, huyện Thanh Hà ở, vợ chồng sống ly thân được khoảng 05 tháng. Trong thời gian chị về nhà bố mẹ đẻ ở anh Đ không lần nào đến tìm chị về chung sống. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ.

- Về quan hệ con chung: Chị T xác định chị và anh Đ có 01 con chung là Mai Đức Nh, sinh ngày 10/5/2019. Ly hôn do cháu Nh còn nhỏ nên chị xin nhận nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Hiện nay chị là nhân viên làm tóc tại Salon Th ở thành phố Hải Dương có mức thu nhập hàng tháng từ khoảng 7.000.000đ đến 10.000.000đ. Thời gian làm việc giờ hành chính, ngày làm 8 tiếng đủ thời gian và điều kiện chăm con. Về chỗ ở hiện nay chị đang ở tại nhà bố mẹ đẻ chị tại xã Th, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương nhà cửa rộng rãi, thoáng mát, đảm bảo cuộc sống sinh hoạt cho cháu Nh. Nếu Tòa án giao con cho chị nuôi bố mẹ chị sẽ giúp chị chăm sóc cháu Nh khi chị đi làm.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác định giữa chị và anh Đ không có tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp với hai bên gia đình nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Theo biên bản lấy lời khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bị đơn anh Mai Văn Đ trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Đ xác định về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn chị T trình bày là đúng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau về tính cách, quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cãi nhau. Chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ khoảng tháng 7 năm 2020, vợ chồng đã sống ly thân khoảng 05 tháng. Trong thời gian chị T về nhà bố mẹ đẻ ở anh không lần nào đến tìm chị T về chung sống. Nay chị T làm đơn xin ly hôn, anh Đ xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn.

- Về quan hệ con chung: Anh Đ xác định vợ chồng có 01 con chung là Mai Đức Nh, sinh ngày 10/5/2019. Quan điểm của anh Đ xin nhận nuôi con và tự nguyện không yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Hiện nay anh làm lái xe thuê, thu nhập khoảng 13.000.000đ/tháng. Thời gian làm việc từ 8 giờ đến 21 giờ hàng ngày. Về chỗ ở hiện anh đang ở nhà cùng bố mẹ đẻ tại thôn C, xã T, thành phố Hải Dương, bố mẹ anh sẽ tạo mọi điều kiện giúp đỡ anh chăm sóc cháu Nh giúp anh khi anh đi làm.

- Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người làm chứng bà Phạm Thị X (mẹ đẻ anh Đ) trình bày:

Chị T, anh Đ kết hôn vào năm 2018. Quá trình chung sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ đến khoảng đầu năm 2020, anh Đ có đi chơi qua đêm không về nhà, chị T có khuyên bảo nhưng anh Đ không thay đổi từ đó dấn đến vợ chồng mâu thuẫn. Chị T đã mang quần áo, đồ đạc về nhà bố mẹ đẻ ở. Nay chị T xin ly hôn anh Đ quan điểm của bà X đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống chị T và anh Đ có 01 con chung là Mai Đức Nh, sinh ngày 10/5/2019. Quan điểm của bà X xin nuôi dưỡng cháu Nh không yêu cầu anh Đ, chị T phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Người làm chứng bà Hoàng Thị N (mẹ đẻ chị T) trình bày:

Chị T, anh Đ kết hôn vào năm 2018. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị T Đạt sống hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Đ thường xuyên đi chơi qua đêm, không tập trung vào công việc, không quan tâm đến vợ con. Đến nay chị T làm đơn xin ly hôn anh Đ quan điểm của bà tùy thuộc vào quyết định của chị T. Quá trình chung sống anh chị T, Đ có 01 con chung là cháu Mai Đức Nh. Nếu Tòa án giao con cho chị T nuôi dưỡng thì gia đình bà sẽ tạo mọi điều kiện để chăm sóc cháu Nh cùng chị T.

Tại phiên toà: Nguyên đơn chị T có đơn xin xét xử vắng mặt vẫn giữ quan điểm xin ly hôn anh Đ; Chị T xin nhận nuôi con Mai Đức Nh và tự nguyện không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung; Về tài sản chung, nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Đ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không có lý do chính đáng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều được đảm bảo. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật.

Về đướng lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229, Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 -12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử chị Bùi Thị T ly hôn anh Mai Văn Đ; Về quan hệ con chung: Giao con chung Mai Đức Nh, sinh ngày 10/5/2019 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 12 năm 2020 đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở; Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết; Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị T có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Mai Văn Đ đã được tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không có lý do chính đáng. Những người làm chứng đều vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai trực tiếp với Tòa án. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và người làm chứng.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị T và anh Mai Văn Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương (nay là xã T, thành phố Hải Dương) vào ngày 18/10/2018, nên có đủ cơ sở xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do trong quá trình chung sống vợ chồng không hợp nhau về quan điểm sống, anh Đ chơi bời không quan tâm đến vợ con từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Chị T đã về nhà bố mẹ đẻ từ tháng 7 năm 2020 đến nay, từ khi chị T về nhà bố mẹ đẻ ở anh Đ không lần nào đến tìm chị T về chung sống. Đến nay chị T xin ly hôn, anh Đ đồng ý. Do vậy căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử quyết định cho chị T ly hôn anh Đ để hai bên ổn định cuộc sống.

[3] Về quan hệ con chung: Chị T, anh Đ đều xác định có 01 con chung là Mai Đức Nh, sinh ngày 10/5/2019. Ly hôn chị T, anh Đ đều xin nhận nuôi con và tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Quá trình giải quyết vụ án chị T xuất trình cho Tòa án bảng lương để chứng minh thu nhập ổn định và thời gian làm việc hành chính hàng ngày 8 tiếng, đảm bảo thời gian và điều kiện nuôi con. Anh Đ không xuất trình được cho Tòa án bảng lương để chứng minh thu nhập thời gian làm việc của mình. Về chỗ ở chị T và anh Đ đều xác định hiện ở chung cùng bố mẹ đẻ. Gia đình chị T và anh Đ sẽ tạo mọi điều kiện để hỗ trợ cho anh chị nuôi con đến khi trưởng thành.

Xét thấy, hiện nay cháu Nh còn nhỏ (dưới 36 tháng tuổi) cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ. Chị T hiện đi làm có thời gian cũng như thu nhập ổn định đảm bảo việc nuôi, dạy cháu Nh. Bố mẹ đẻ chị T cũng tạo mọi điều kiện trông nom cháu Nh khi chị T đi làm. Do vậy để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cháu Mai Văn Nh cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng kể từ tháng 01 năm 2021 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T, anh Đ đều không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 -12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử chị Bùi Thị T ly hôn anh Mai Văn Đ.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Bùi Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Mai Đức Nh, sinh ngày 10/5/2019 kể từ tháng 01 năm 2021 đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh Mai Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn được đối trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị T đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0002622 ngày 29-10-2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Chị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, nuôi con 

Số hiệu:57/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về