Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 57/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 29 tháng 09 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 260/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 06 năm 2020 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:50/2020/QĐXX-ST ngày 24 tháng 08 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Trần Thị Bích Ph, sinh năm 1989 Địa chỉ: thôn Khu 2, xã Thạch S, huyện Lâm Th, tỉnh Phú Thọ.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Gi, sinh năm 1984 Địa chỉ: thôn VL, xã Phù L, H.Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

(Có mặt chị Ph, vắng mặt anh Gi.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/4/2020 và trong quá trình xét xử, chị Trần Thị Bích Ph trình bày:

- Về tình cảm: Chị và anh Nguyễn Văn Gi kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phù L, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, vào ngày 27/9/2016. Anh chị không tổ chức lễ thành hôn, do chị và anh Gi có con chung với nhau nên sau khi đăng ký vợ chồng về chung sống với nhau luôn. Hai vợ chồng chung sống cùng gia đình nhà chồng khoảng 1 năm thì xin ra thuê nhà ở riêng. Về tình cảm vợ chồng chỉ hạnh phúc khoảng thời gian ngắn thì nảy sinh mâu thuẫn do không đồng quan điểm sống, không hợp nhau. Chị và anh Gi ly thân nhau từ 2017 cho đến nay. Đầu năm 2017 chị đã có đơn ly hôn gửi Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn giải quyết, nhưng do mang thai cháu thứ hai nên chị rút đơn để sinh con. Sau khi sinh con, tình cảm vơ chồng vẫn không cải thiện, anh Gi sống nhưng không có trách nhiệm với gia đình và vợ con, một mình chị cùng gia đình bên ngoại lo lắng, ghánh vác việc chăm sóc, chạy chữa bệnh cho con, làm chị mất niềm tin nơi anh Gi. Chị nhiều lần cũng tạo cơ hội cho anh Gi nhưng tình trạng hôn nhân vẫn không cải thiện được. Tình cảm vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị được ly hôn để cả hai ổn định cuộc sống riêng.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị sinh được 02 con chung:

cháu Nguyễn Ngọc Thanh Tr, sinh ngày 28/6/2016; cháu Nguyễn Kỳ V, sinh ngày 16/8/2017. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung. Khi sinh cháu V do sinh non 2,9kg, thủng ruột non, viêm phúc mạc đại tràng và phải nằm viện điều trị 6 tháng. Sau khi sinh vợ chồng gặp khó khăn về kinh tế được gia đình bên ngoại giúp đỡ chăm sóc cháu. Hiện sức khỏe của hai cháu đều khỏe mạnh. Cháu Tr đang đi lớp mẫu giáo lớn. Hiện cả hai con của chị đang ở với chị từ khi sinh cho đến nay tại (Khu 2, xã Thạch S, huyện Lâm Th, tỉnh Phú Thọ). Anh Gi sống nhưng không có trách nhiệm gì với các con và gia đình mà toàn bộ chi phí sinh hoạt do chị tự đảm nhiệm. Anh Gi bỏ mặc chị và các con không chu cấp và thăm hỏi. Hiện nay chị đang kinh doanh tự do, thu nhập bình quân 20.000.000đ/tháng. Chị có nguyện vọng tiếp tục được nuôi cả hai con chung do các cháu còn nhỏ. Chị không đồng ý giao con chung cho anh Gi nuôi dưỡng, vì anh Gi thường xuyên vắng nhà.

- Về cấp dượng nuôi con chung: Chị xin tự đảm nhiệm việc nuôi con, không yêu cầu anh Gi cấp dưỡng.

- Về tài sản chung, công sức đóng góp, nợ chung, nhà, đất ở, đất sản xuất nông nghiệp: Vợ chồng chị tự thỏa thuận giải quyết, chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Tại biên biên bản hòa giải và bản khai ngày 21/6/2020 và trong quá trình xét xử bị đơn là anh Nguyễn Văn Gi vắng mặt nhưng có lời khai:

-Về tình cảm: Anh và chị Trần Thị Bích Ph xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tụ nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phù L, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội ngày 27/9/2016.

Anh xác nhận việc kết hôn và mâu thuẫn vợ chồng đúng như chị Ph trình bày. Trong thời gian chung sống, giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm, không hòa hợp tính cách. Anh và chị Ph đã sống ly thân từ tháng 4/2017 đến nay. Mặc dù đã được gia đình và bạn bè động viên hòa giải nhưng cuộc sống chung vợ chồng không cải thiện được, mâu thuẫn vẫn xảy ra. Anh xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc, anh đồng ý ly hôn cùng chị Ph để các bên ổn định cuộc sống riêng.

- Về con chung: Anh xác nhận vợ chồng có 02 con chung: cháu Nguyễn Ngọc Thanh Tr, sinh ngày 28/6/2016; cháu Nguyễn Kỳ V, sinh ngày 16/8/2017. Ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi cháu Tr, anh không đồng ý để chị Ph nuôi 2 con chung. Anh xác nhận việc cháu V sau khi sinh bị bệnh và do bên ngoại(nhà vợ) chu cấp kinh tế, chữa trị và chăm sóc con của anh chị, hiện nay các con của anh đang ở với chị Ph khỏe mạnh. Anh có nguyện vọng xin nuôi cháu là cháu Tr, chị Ph nuôi cháu V. Hiện tại công việc của anh làm nghề tự do, sửa chữa điện thoại thu nhập không ổn định và thường xuyên phải vắng nhà. Nếu anh được nuôi con anh sẽ gửi bố mẹ đẻ anh chăm sóc.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Tự các bên đảm nhiệm việc nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-Về tài sản chung, công sức đóng góp, nợ chung, nhà, đất ở, đất sản xuất nông nghiệp: Vợ chồng anh tự thỏa thuận giải quyết, anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán; Thư ký Tòa án; Hội đồng xét xử và nguyên đơn, bị đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.

- Về ý kiến giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát không phát biểu về nội dung vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị Bích Ph xin ly hôn anh Nguyễn Văn Gi, hiện anh Gi cư trú tại thôn VL xã Phù L, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, căn cứ vào Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Gi theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa ngày 10/9/2020, anh Gi vắng mặt không có lý do nên Tòa án đã hoãn phiên tòa lần thứ nhất. Tại phiên tòa ngày hôm, anh Gi tiếp tục vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Gi theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Chị Trần Thị Bích Ph kết hôn với anh Nguyễn Văn Gi,trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phù L, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận kết hôn số 54/2016, ngày 27/9/2016. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.

Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 4/2017 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh Gi thường xuyên vắng nhà, không quan tâm lo lắng cho gia đình, vợ chồng mất niềm tin nơi nhau. Đầu năm 2017 chị Ph đã làm đơn xin ly hôn ra tòa, được gia đình hai bên động viên, hòa giải chị đã rút đơn nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện, mâu thuẫn vợ chồng vẫn xảy ra. Tại phiên tòa chị Ph xác định không còn tình cảm với anh Gi và đề nghị giải quyết cho chị ly hôn. Anh Gi cũng xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, anh đồng ý ly hôn cùng chị Ph. Xét thấy cuộc hôn nhân của anh chị không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục cuộc sống chung vợ chồng. Vì vậy căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cho chị Ph được ly hôn với anh Gi là đúng quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung: cháu Nguyễn Ngọc Thanh Tr, sinh ngày 28/6/2016; cháu Nguyễn Kỳ V, sinh ngày 16/8/2017. Hiện nay các cháu đang ở với chị Ph. Ly hôn anh Gi và chị Ph đều có nguyện vọng được nuôi cả 02 con. Xét yêu cầu của các bên Hội đồng xét xử nhận thấy. Việc chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên là trách nhiệm của cả bố và mẹ, tuy nhiện hiện nay các cháu còn nhỏ và hiện đang ở ổn định với chị Ph. Quá trình xác minh tại địa phương cũng thể hiện anh Gi làm nghề tự do, thường xuyên vắng nhà, nên không thể có điều kiện tốt để nuôi con, do vậy để không xáo trộn cuộc sống của các con sau ly hôn Hội đồng xét xử giao cả 02 con cho chị Ph nuôi dưỡng. Do chị Ph không yêu cầu anh Gi cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Gi cho đến khi chị Ph có yêu cầu hoặc có quyết định khác của Tòa án.

[4] Về tài sản chung, công sức đóng góp, nợ chung, đất ở, nhà, đất sản xuất nông nghiệp: Hai bên không đề nghị Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Ph phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 235; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 51; Điều 56; Điều 58 Luật hôn nhân gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Bích Ph đối với anh Nguyễn Văn Gi. Cho chị Ph được ly hôn anh Giang.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Ngọc Thanh Tr, sinh ngày 28/6/2016; cháu Nguyễn Kỳ V, sinh ngày 16/8/2017 cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Gi đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác của Tòa án.

Anh Gi có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, công sức đóng góp, nợ chung, đất ở, nhà, đất sản xuất nông nghiệp: Tòa án không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm 300.000đ, chị Ph phải chịu. Được trừ vào số tiền 300.000đ chị đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0018708 ngày 05/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn.

Chị Ph có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Giang có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày  nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:57/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về