TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 57/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 27 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái , tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 332/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 về việc: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Lan A, sinh năm 1990; vắng mặt. Địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn H, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc.
Bị đơn: Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1989 vắng mặt. Địa chỉ: Thôn N, xã N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.
Hiện đang chấp hành án tại đội 35 K1- Trại giam H - Bộ công an.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện; bản tự khai; các tài liệu có trong hồ sơ nguyên đơn chị Vũ Thị Lan A trình bày:
Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Lan A và anh Nguyễn Đức H đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái vào ngày 11/9/2013 trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 12 năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, anh H chơi bời, nghiện ngập không chịu làm ăn.
Mâu thuẫn vợ chồng đã tự hòa giải, hai bên gia đình đã khuyên bảo hòa giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn không khắc phục được. Chị L và anh H đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2015 đến nay không quan tâm đến nhau. Hiện anh H đang chấp hành hình phạt tù về tội bắt giữ người trái pháp luật tại đội 35 k1, trại giam H, Bộ Công an. Chị Lan A xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị Lan A đề nghị Tòa án giải quyết cho chị L được ly hôn với anh H.
Về con chung: Chị Lan A và anh H có 01 con chung là cháu Nguyễn Vũ Q, sinh ngày 19/11/2013, ly hôn chị Lan A có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Q, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.
Về chia tài sản: Chị Lan A không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tại bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ bị đơn anh Nguyễn Đức H trình bày:
Về hôn nhân: Anh H thống nhất với chị Lan A về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn, cũng như nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng. Nay chị Lan A làm đơn ly hôn, anh H xác định tình cảm vợ chồng đã hết anh H đề nghị Tòa án giải quyết cho anh H và chị Lan A được ly hôn.
Về con chung: Anh H thống nhất với lời trình bày của chị Lan A, đồng ý để chị Lan A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Vũ Q, anh H không cấp dưỡng nuôi con chung.
Về chia tài sản: Anh H không yêu cầu Toà án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái phát biểu quan điểm về vụ án: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, các đương sự thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Vũ Thị Lan A được ly hôn anh Nguyễn Đức H. Giao cho chị Lan A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Vũ Q, sinh ngày 19/11/2013 cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi cháu Q. Chị Lan A phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chị Lan A, anh H có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Bị đơn anh Nguyễn Đức H có hộ khẩu thường trú tại tổ 14 (Nam Thọ), phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái. Đây là vụ án hôn nhân gia đình về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
Nguyên đơn chị Vũ Thị Lan A và bị đơn anh Nguyễn Đức H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Lan A kết hôn với anh Nguyễn Đức H trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, chị Lan A và anh H không còn chung sống cùng nhau đã sống ly thân từ 4 năm 2015 đến nay không quan tâm đến nhau. Chị Lan A và anh H cùng xác định tình cảm vợ chồng đã hết đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Lan A và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị Lan A là có cơ sở cần chấp nhận.
[4] Về con chung: Chị Lan A và anh H có 01 con chung là cháu Nguyễn Vũ Q, sinh ngày 19/11/2013, khi ly hôn chị Lan A có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Q. Hiện cháu Q đang chung sống cùng chị Lan A và có nguyện vọng được ở cùng chị Lan A, anh H đang chấp hành án phạt tù đồng ý để chị Lan A trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q nên giao cháu Q cho chị Lan A trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp. Do chị Lan A không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên anh H chưa phải cấp dưỡng nuôi con.
[5] Về chia tài sản: Chị Lan A và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6 ] Về án phí và quyền kháng cáo:
Chị Lan A phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn. Chị Lan A, anh H có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Lan A và anh Nguyễn Đức H được ly hôn.
2. Về con chung: Giao cho chị Vũ Thị Lan A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Vũ Q, sinh ngày 19/11/2013 cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi. Anh Nguyễn Đức H không phải cấp dưỡng nuôi cháu Q và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Vũ Thị Lan A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị Lan A đã nộp là 300.000 đ (Ba trăm nghìn) theo biên lai số: AA/2017/0006591, ngày 12 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Yên Bái.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Lan A và anh Nguyễn Đức H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 57/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về