Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 05/10/2020 về yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 57/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/10/2020 VỀ YÊU CẦU LY HÔN

 Ngày 05 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 324/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2019 về việc “Yêu cầu ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2020/QĐXX-ST ngày 26 tháng 8 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 9 năm 2020 giữa:

1- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Ngọc T, sinh năm 1997, Vắng mặt.

Địa chỉ: tổ 2, khu phố H, phường K, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

2- Bị đơn: Ông Bùi Thanh TA, sinh năm 1998, Vắng mặt.

Địa chỉ: tổ 5 khu phố T, thị trấn Đ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 23/12/2019, bản khai tiếp theo nguyên đơn bà Huỳnh Thị Ngọc T trình bày:

Về hôn nhân: Bà T với ông TA tự nguyện sống chung như vợ chồng vào năm 2015 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường K, thành phố B, giấy đăng ký kết hôn số 76 ngày 06 tháng 12 năm 2018. Sau khi kết hôn vợ chồng đến sống tại khu phố T, thị trấn Đ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Trong cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc, nguyên nhân do ông TA nghiện ma túy, không lo làm ăn, tụ tập ăn chơi còn ngược dãi bà T, bà T về nhà cha mẹ ruột sống từ tháng 2/2019 đến nay, trong thời gian sống ly thân không có hòa giải hàn gắn.

Về con chung: Có một người tên Huỳnh Đăng K, sinh ngày 26/7/2015, hiện nay đang sống cùng bà T, tình trạng sức khỏe bình thường.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có Nay, bà T yêu cầu được ly hôn với ông Bùi Thanh TA; Về con chung yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn ông Bùi Thanh TA vắng mặt tại phiên toà, trong quá trình thụ lý vụ án không triệu tập được ông TA nên không thu thập được lời khai để biết được ý kiến của ông TA đối với yêu cầu của bà T.

Ý kiến của Viện kiểm sát về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, đương sự và quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; Đối với bị đơn không chấp hành, không tham gia phiên hòa giải và xét xử.

- Về nội dụng vụ án: Căn cứ vào chứng cứ thu thập được và lời trình bày của nguyên đơn, đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn và việc nuôi con chung của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, nghe ý kiến của Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ nhận định:

[1]Về tố tụng: Bà T yêu cầu ly hôn, đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình, ông TA có nơi cư trú tại thị trấn Đ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Ông TA được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do chính đáng, bà T có đơn xin xét xử vắng mặt đủ căn cứ giải quyết vắng mặt đương sự theo Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[2]Về hôn nhân: Hôn nhân giữa bà T với ông TA là hôn nhân hợp pháp, trong thời gian sống chung giữa T với ông TA xảy ra mâu thuẩn, theo bà T là do ông TA nghiện ma túy, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể sống chung, bà T đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sống từ tháng 02/2019 vợ chồng sống ly thân đến nay, vợ chồng không hòa giải hàn gắn. Nay, bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu ly hôn, từ ngày thụ lý yêu cầu của bà T, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng ông TA không đến Tòa án, không cung cấp bản khai, không có ý kiến để xác định lời trình bày của bà T về tình trạng hôn nhân có đúng hay không. Hiện ông TA còn ở địa phương, nhưng không tống đạt được trực tiếp các văn bản tố tụng phải qua niêm yết, ông TA không hợp tác đến tòa, điều này cho thấy ông TA không còn tha thiết gì về quan hệ vợ chồng, không đến Tòa án để tham gia hòa giải hàn gắn. Tại biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân, hiện tại bà T với ông TA không còn sống chung tại địa phương, địa phương không biết được tình trạng hôn nhân của hai người. Như vậy, lời trình bày của bà T về tình trạng hôn nhân là có căn cứ, theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T.

[3]Về nuôi con chung: Bà T với ông TA có một người con chung, tình trạng sức khỏe bình thường, hiện nay đang sống cùng bà T; ông TA là người nghiện ma túy không đủ điều kiện nuôi con chung, bà T có đủ điều kiện nuôi con chung nên giao cho bà T được trực tiếp nuôi dưỡng, bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Điều nay cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung được quy định tại Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5]Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm trong vụ án ly hôn, nên bà T phải chịu toàn bộ án phí sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), ông TA không phải chịu án phí.

[6]Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 147, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án.

1/- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Huỳnh Thị Ngọc T, bà T được ly hôn với ông Bùi Thanh TA.

2/- Về con chung: Bà Huỳnh Thị Ngọc T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Đăng K, sinh ngày 26/7/2015, bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn bà T, ông TA đều có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, ông TA có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì quyền lợi của con chung, trong trường hợp cần thiết theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con.

3.Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

4.Về án phí: Bà Huỳnh Thị Ngọc T phải phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000991 ngày 23/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ, bà T đã nộp đủ tiền án phí. Ông Bùi Thanh TA không phải chịu án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 (7a, 7b) và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 05/10/2020 về yêu cầu ly hôn

Số hiệu:57/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về