TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH - TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 57/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Xét sử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 211/2019/TLST- HNGĐ ngày 28-8-2019 về việc: “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07-10-2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2019/QĐST-DS ngày 28-10-2019. Giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ngọc C; sinh năm 1983.
Địa chỉ: Số 50 N, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.
Bị đơn: Ông Trần Anh K; sinh năm 1984.
Địa chỉ: Số 63 thôn Đ, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.
Bà C có mặt tại phiên tòa, ông K vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, lời khai và lời trình bày tại phiên tòa hôm nay, bà Lê Thị Ngọc C trình bày: Bà và ông K tự nguyện kết hôn năm 2010, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng sống không hợp nhau, ông K không chịu khó làm ăn, hay cờ bạc, không chăm lo cho gia đình. Từ tháng 8/2019 đến nay đã sống ly thân. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 15-9-2011 và Trần Lê Gia H, sinh ngày 05-12-2013 hiện đang sống với bà. Khi ly hôn bà xin trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung, không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung; Tài sản cho vay chung và tài sản nợ chung không có. Khi ly hôn không yêu cầu giải quyết về tài sản.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông Trần Anh K nhưng ông K đều vắng mặt nên không có lời trình bày.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử xử cho bà C được ly ông K. Về con chung, giao con chung tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 15-9-2011 và Trần Lê Gia H, sinh ngày 05-12-2013 cho bà C trực tiếp nuôi dưỡng, ông K không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản; bà C chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu và xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa hôm nay và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa hôm nay, ông Trần Anh K là bị đơn vắng mặt mặc dù đã được Tòa án triêu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà C và ông K tự nguyện kết hôn năm 2010, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng sống không hợp nhau, ông K không chịu khó làm ăn, hay cờ bạc, không chăm lo cho gia đình. Từ tháng 8/2019 đến nay đã sống ly thân. Bà C xác định hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, ông K không đến Tòa lần nào, tại phiên tòa hôm nay cũng không có mặt nên không có ý kiến của ông. Qua xác minh tại địa phương thì giữa bà C và ông K chung sống có mâu thuẫn và đã sống ly thân. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa bà C và ông K đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Xử cho bà C được ly hôn với ông K là phù hợp.
[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 15-9-2011 và Trần Lê Gia H, sinh ngày 05-12-2013, khi ly hôn bà C xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung, không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con. Xét quyền lợi mọi mặt của con, khả năng nuôi dưỡng con của các bên và để ổn định cuộc sống cho các con. Căn cứ Điều 81, 82, 83, 84 và 116 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Giao các con chung tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 15-9-2011 và Trần Lê Gia H, sinh ngày 05-12-2013 cho bà C trực tiếp nuôi dưỡng, ông K không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung là phù hợp.
[4] Về tài sản: Theo bà C thì vợ chồng không có tài sản chung; tài sản cho vay chung và tài sản nợ chung không có, khi ly hôn không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ông K lại không có mặt để trình bày ý kiến của mình nên không đề cập giải quyết.
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 144; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bà Cẩm phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm xin ly hôn là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 144; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Điều 56; 81; 82; 83; 84 và 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1) Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Ngọc C được ly hôn với ông Trần Anh K.
2) Về con chung: Giao các con chung tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 15-9- 2011 và Trần Lê Gia H, sinh ngày 05-12-2013 cho bà C trực tiếp nuôi dưỡng.
Ông K không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung; không ai được ngăn cản.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên. Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi.
3) Về án phí: Bà C chịu 300.000đ án phí DSST xin ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0014399 ngày 28-8-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Di Linh. (Bà C đã nộp đủ án phí).
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay, các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 57/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về xin ly hôn
Số hiệu: | 57/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về